KINH PHÁP CÚ
1. PHẨM SONG ĐỐI - YAMAKA VAGGA
[01] 1. Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo.
1. Manopubbaṅgamā dhammā – manoseṭṭhā manomayā
Manasā ce paduṭṭhena – bhāsati vā karoti vā
Tato naṁ dukkhamanveti -cakkam’vā vahato padaṁ.
1. Các pháp (sở hữu tâm) có tâm là sự dẫn đầu, có tâm là chủ đạo, được tạo ra bởi tâm. Nếu (người nào) nói hay làm với tâm xấu xa, do điều ấy khổ đau đi theo người ấy ví như bánh xe (đi theo) bước chân của con vật đang kéo xe.

[02] 2. Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình.
2. Manopubbaṅgamā dhammā manoseṭṭhā manomyā
Manasā ce pasannena bhāsati vā karoti vā
Tato naṁ sukhamanveti – chāyā’va anapāyinī.
2. Các pháp (sở hữu tâm) có tâm là sự dẫn đầu, có tâm là chủ đạo, được tạo ra bởi tâm. Nếu (người nào) nói hay làm với tâm trong sạch, do điều ấy hạnh phúc đi theo người ấy ví như bóng có sự không lìa khỏi (hình).

[03] 3. Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi
Ai ôm hiềm hận ấy,
Hận thù không thể nguôi.
3. Akkocchi mam avadhi maṁ-ajini maṁ ahāsi me
Ye taṁ upanayhanti – veraṁ tesaṁ na sammati
3. Nó đã sỉ vả tôi, nó đã đánh đập tôi, nó đã chế ngự tôi, nó đã tước đoạt của tôi. Những người nào ấp ủ điều ấy, sự thù hận của những người ấy không được lặng yên.

[04] 4. Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi
Không ôm hiềm hận ấy,
Hận thù được tự nguôi.
4. Akkocchi maṁ avadhi maṁ ajini maṁ ahāsi me
Ye taṁ na upanayhanti veraṁ tesūpasammati
4. Nó đã sỉ vả tôi, nó đã đánh đập tôi, nó đã chế ngự tôi, nó đã tước đoạt của tôi. Những người nào không ấp ủ điều ấy, sự thù hận ở những người ấy được lặng yên.

[05] 5. Với hận diệt hận thù,
Ðời này không có được.
Không hận diệt hận thù,
Là định luật ngàn thu.
5. Na hi verena verāni – sammantī’dha kudācanaṁ
Averena ca sammanti – esa dhammo sanantano.
5. Ở thế gian này, các sự thù hận không bao giờ được lặng yên bởi sự hận thù, và chúng được lặng yên bởi sự không thù hận; điều này là quy luật cổ xưa.

[06] 6. Và người khác không biết,
Chúng ta đây bị hại.
Chỗ ấy, ai hiểu được
Tranh luận được lắng êm.
6. Pare ca na vijānanti –
mayamettha yamāmase
Ye ca tattha vijānanti –
tato sammanti medhagā.
6. Và những kẻ khác không nhận thức được, ở đây chúng ta nên tự kiềm chế. Còn những ai tại nơi ấy nhận thức được (điều ấy), nhờ thế các sự tranh chấp được lặng yên.

[07] 7. Ai sống nhìn tịnh tướng,
Không hộ trì các căn,
ăn uống thiếu tiết độ,
biếng nhác, chẳng tinh cần.
Ma uy hiếp kẻ ấy,
như cây yếu trước gió.
7. Subhānupassim viharantam – indriyesu asamvutam
Bhojanamhi amattaññum – kusītaṁ hīnavīriyaṁ
Taṁ ve pasahati māro – vāto rukkham’va dubbalaṁ.
7. Trong khi sống có sự quan sát về tịnh tướng, không thu thúc ở các giác quan, không biết chừng mực về vật thực, lười biếng, có sự tinh tấn thấp kém, Ma Vương quả nhiên ngự trị người ấy, ví như cơn gió (đè bẹp) thân cây yếu ớt.

[08] 8. Ai sống quán bất tịnh,
Khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ,
Có lòng tin, tinh cần,
Ma không uy hiếp được,
Như núi đá, trước gió.
8. Asubhānupassiṁ viharantaṁ indriyesu susaṁvutaṁ
Bhojanamhi ca mattaññuṁ -saddhaṁ āraddhavīriyaṁ
Taṁ ve nappasahati māro -vāto se lamva pabbattaṁ
8. Trong khi sống có sự quan sát về bất tịnh tướng, khéo thu thúc ở các giác quan, biết chừng mực về vật thực, có niềm tin, có sự ra sức tinh tấn, Ma Vương quả nhiên không ngự trị người ấy, ví như cơn gió (không đè bẹp được) ngọn núi đá.

[09] 9. Ai mặc áo cà sa. [1]
tâm chưa rời uế trược,
không tự chế, không thực,
không xứng áo cà sa
9. Anikkasāvo kāsāvaṁ – yo vatthaṁ paridahessati
Apeto damasaccena – na so kāsāvam arahati.
9. Kẻ nào có uế trược chưa lìa, sẽ khoác lên tấm vải ca-sa, (mà) bỏ bê việc rèn luyện và sự chân thật, kẻ ấy không xứng với y ca-sa.

[10] 10. Ai rời bỏ uế trược,
giới luật khéo nghiêm trì,
tự chế, sống chơn thực,
thật xứng áo cà sa.
10. Yo ca vantakasāv’ assa – sīlesu susamāhito
Upeto damasaccena – sa ve kāsāvam arahati.
10. Còn vị nào có uế trược đã được tẩy trừ, khéo định tĩnh trong các giới, gắn bó với việc rèn luyện và chân thật, người ấy quả nhiên xứng với y ca-sa.

[11] 11. Không chân, tưởng chân thật,
chân thật, thấy không chân:
chúng không đạt chân thật,
do tà tư, tà hạnh.
11. Asāre sāramatino –
Sāre cāsāradassino
Te sāraṁ nādhigacchanti –
Micchāsaṅkappagocarā.
11. Những người có quan niệm về điều vô ích là cốt lõi, và có nhận thức về điều cốt lõi là vô ích, những người ấy không đạt đến điều cốt lõi, có hành xứ là những tư tuy sai trái.

[12] 12. Chân thật, biết chân thật,
Không chân, biết không chân:
chúng đạt được chân thật,
do chánh tư, chánh hạnh.
12. Sāran ca sārato ñatvā -asārañ ca asārato
Te sāraṁ adhigacchanti – sammā saṅkappagoccarā.
12. Và sau khi biết được điều cốt lõi là cốt lõi, và điều vô ích là vô ích, những người ấy đạt đến điều cốt lõi, có hành xứ là những tư tuy đúng đắn.

[13] 13. Như mái nhà vụng lợp,
Mưa liền xâm nhập vào.
Cũng vậy tâm không tu,
Tham dục liền xâm nhập.
13. Yathā’gāraṁ ducchannaṁ – vuṭṭhi samativijjhati
Evaṁ abhāvitaṁ cittaṁ – rāgo samativijjhati.
13. Giống như mưa xuyên thủng ngôi nhà được lợp (mái) vụng về, tương tự như thế ấy luyến ái xuyên thủng tâm không tu tập.

[14] 14. Như ngôi nhà khéo lợp,
Mưa không xâm nhập vào.
Cũng vậy tâm khéo tu,
Tham dục không xâm nhập.
14. Yathā’gāraṁ succhannaṁ – vuṭṭhi na samativijjhati
Evaṁ subhāvitaṁ cittaṁ – rāgo na samativijjhati.
14. Giống như mưa không xuyên thủng ngôi nhà được lợp (mái) khéo léo, tương tự như thế ấy luyến ái không xuyên thủng tâm khéo được tu tập.

[15] 15. Nay sầu, đời sau sầu,
Kẻ ác, hai đời sầu;
Nó sầu, nó ưu não,
Thấy nghiệp uế mình làm.
15. Idha socati pecca socati
Pāpakārī ubhayattha socati
So socati so vihaññati disvā kammakiliṭṭham attano.
15. Kẻ làm ác sầu muộn ở đời này, sầu muộn sau khi chết, sầu muộn ở cả hai nơi. Sau khi nhìn thấy sự ô nhiễm ở việc làm của bản thân, kẻ ấy sầu muộn, kẻ ấy sầu khổ.

[16] 16. Nay vui, đời sau vui,
Làm phước, hai đời vui,
Nó vui, nó an vui,
Thấy nghiệp tịnh mình làm.
16. Idha modati pecca modati – katapuñño ubhayattha modati
So modati so pamodati – disvā kammavisuddhamattano.
16. Người đã làm việc phước thiện vui sướng ở đời này, vui sướng sau khi chết, vui sướng ở cả hai nơi. Sau khi nhìn thấy sự trong sạch ở việc làm của bản thân, người ấy vui sướng, người ấy thích thú.

[17] 17. Nay than, đời sau than,
Kẻ ác, hai đời than,
Nó than: ‘Ta làm ác’
Ðọa cõi dữ, than hơn.
17. Idha tappati pecca tappati – pāpakārī ubhayattha tappati
Pāpaṁ me katan ti tappati – bhiyyo tappati duggatiṁ gato.
17. Kẻ làm ác bị bứt rứt ở đời này, bị bứt rứt sau khi chết, bị bứt rứt ở cả hai nơi, bị bứt rứt (nghĩ rằng): ‘Ta đã làm việc ác,’ bị đi đến khổ cảnh (kẻ ấy) bị bứt rứt nhiều hơn nữa.

[18] 18. Nay sướng, đời sau sướng,
Làm phước, hai đời sướng.
Nó sướng: ‘Ta làm thiện’,
Sanh cõi lành, sướng hơn.
18. Idha nandati pecca nandati – katapuñño ubhayattha nandati
Puññaṁ me katan ti nandati – bhiyyo nandati suggatiṁ gato.
18. Người đã làm phước thiện hân hoan ở đời này, hân hoan sau khi chết, hân hoan ở cả hai nơi, hân hoan (nghĩ rằng): ‘Ta đã làm việc phước thiện,’ được đi đến nhàn cảnh (người ấy) hân hoan nhiều hơn nữa.

[19] 19. Nếu người nói nhiều kinh,
Không hành trì, phóng dật;
Như kẻ chăn bò người,
Không phần Sa môn hạnh.
19. Bahum pi ce sahitaṁ bhāsamāno – na takkaro hoti naro pamatto
Gopo’va gāvo gaṇayaṁ paresaṁ na bhāgavā sāmaññassa hoti.
19. Nếu là người dẫu đang nói nhiều về Kinh điển
mà là người bị xao lãng, không làm điều ấy,
được ví như kẻ chăn bò đang tính đếm đàn bò cho những người khác,
không có phần Sa-môn hạnh.

[20] 20. Dầu nói ít kinh điển,
Nhưng hành pháp, tùy pháp,
Từ bỏ tham, sân, si,
Tĩnh giác, tâm giải thoát,
Không chấp thủ hai đời,
Dự phần Sa môn hạnh.
20. Appam pi ce sahitaṁ bhāsamāno dhammassa hoti anudhamma cāri
Rāgañ ca dosañ ca pahāya mohaṁ sammappajāno suvimuttacitto
Anupādiyāno idha vā huraṁ vā sa bhāgavā sāmaññassa hoti.
20. Nếu là người dẫu đang nói ít về Kinh điển
mà có sự hành trì thuận pháp đối với Giáo Pháp,
sau khi dứt bỏ ái dục, sân hận và si mê,
có sự nhận thức đúng đắn, có tâm khéo được giải thoát,
trong khi không chấp thủ đời này hoặc đời kế tiếp,
người ấy được hưởng phần Sa-môn hạnh.

2. PHẨM KHÔNG XAO LÃNG - APPAMĀDA VAGGA
[21] 1. Không phóng dật, đường sống,
Phóng dật là đường chết.
Không phóng dật, không chết,
Phóng dật như chết rồi.
1. Appamādo amatapadaṁ -pamādo maccuno padaṁ
Appamattā na mīyanti – ye pamattā yathā matā.
1. Sự không xao lãng là đạo lộ Bất Tử (Niết Bàn), sự xao lãng là con đường đưa đến sự chết. Những người không xao lãng không chết, những người nào xao lãng giống như đã chết.

[22] 2. Biết rõ sai biệt ấy,
Người trí không phóng dật,
Hoan hỷ, không phóng dật,
An vui hạnh bậc Thánh.
2. Etaṁ visesato ñatvā -appamādamhi paṇḍitā
Appamāde pamodanti -ariyānaṁ gocare ratā.
2. Sau khi biết rõ điều ấy ở sự không xao lãng, thích thú trong hành xứ của các bậc Thánh, các bậc sáng suốt vui sướng ở sự không xao lãng.

[23] 3. Người hằng tu thiền định,
Thường kiên trì tinh tấn.
Bậc trí hưởng Niết Bàn,
Ðạt an tịnh vô thượng.
3. Te jhāyino sātatikā – niccam daḷhaparakkamā
Phusanti dhīrā nibbānaṁ -yogakkhemam anuttaraṁ.
3. Có thiền chứng, kiên trì, thường xuyên có sự nỗ lực vững chãi, sáng trí, các vị ấy đạt đến Niết Bàn, sự an toàn tối thượng đối với các trói buộc.

[24] 4. Nỗ lực, giữ chánh niệm,
Tịnh hạnh, hành thận trọng
Tự điều, sống theo pháp,
Ai sống không phóng dật,
Tiếng lành ngày tăng trưởng.
4. Uṭṭhānavato satimato – sucikammassa nisammakārino
Saññatassa ca dhammajīvino appamattassa yaso’bhivaḍḍhati.
4. Đối với người có sự tích cực, có niệm, có việc làm trong sạch, có hành động đã được cân nhắc, tự chế ngự, sống đúng pháp, không bị xao lãng, thì danh tiếng được tăng trưởng.

[25] 5. Nỗ lực, không phóng dật,
Tự điều, khéo chế ngự.
Bậc trí xây hòn đảo,
Nước lụt khó ngập tràn.
5. Uṭṭhānenappamādena – saññamena damena ca
Dīpaṁ kayirātha medhāvi -yaṁ ogho n’ābhikīrati.
5. Bằng sự tích cực, bằng sự không xao lãng, bằng sự tự chế ngự, và bằng sự rèn luyện, bậc thông minh nên xây dựng hòn đảo mà cơn lũ không tràn ngập được.

[26] 6. Chúng ngu si, thiếu trí,
Chuyên sống đời phóng dật.
Người trí, không phóng dật,
Như giữ tài sản quý.
6. Pamādamanuyuñjanti – bālā dummedhino janā
Appamādañ ca medhāvī -dhanaṁ seṭṭhaṁ’va rakkhati.
6. Những kẻ ngu, trí tồi, chiều theo sự xao lãng, còn vị thông minh gìn giữ sự không xao lãng như là (gìn giữ) tài sản quý nhất.

[27] 7. Chớ sống đời phóng dật,
Chớ mê say dục lạc.
Không phóng dật, thiền định,
Ðạt được an lạc lớn.
7. Ma pamadamanuyuñjetha -ma kamaratisanthavaṁ
Appamatto hi jhayanto -pappati vipulaṁ sukhaṁ
7. Chớ nên chiều theo sự xao lãng, chớ có (nghĩ đến) sự thân mật, thích thú trong các dục, bởi vì người không xao lãng trong khi tham thiền đạt được sự an lạc bao la.

[28] 8. Người trí dẹp phóng dật,
Với hạnh không phóng dật,
Leo lầu cao trí tuệ,
Không sầu, nhìn khổ sầu,
Bậc trí đứng núi cao,
Nhìn kẻ ngu, đất bằng.
8. Pamādaṁ appamādena – yadā nudati paṇḍito
Paññāpāsādamāruyha asoko sokiniṁ pajaṁ
Pabbataṭṭho’va bhummaṭṭhe dhīro bāle avekkhati.
8. Khi nào bậc sáng suốt xua đi sự xao lãng bằng không xao lãng, (khi ấy) sau khi leo lên tòa lâu đài trí tuệ, không còn sầu muộn, bậc sáng trí nhìn xuống đám người bị sầu muộn, ví như người đứng ở ngọn núi nhìn xuống những kẻ ngu dốt đứng ở mặt đất.

[29] 9. Tinh cần giữa phóng dật,
Tỉnh thức giữa quần mê.
Người trí như ngựa phi,
Bỏ sau con ngựa hèn.
9. Appamatto pamattesu – suttesu bahujāgaro
Abalassaṁ’va sīghasso – hitvā yāti sumedhaso.
9. Là người không xao lãng giữa những kẻ bị xao lãng, là người có nhiều sự tỉnh thức giữa những kẻ bị ngủ mê, bậc sáng trí từ bỏ (những kẻ ấy) và ra đi, ví như con tuấn mã ra đi bỏ lại con ngựa yếu đuối (ở phía sau).

[30] 10. Ðế Thích không phóng dật,
Ðạt ngôi vị Thiên chủ.
Không phóng dật, được khen ;
Phóng dật, thường bị trách.
10. Appamādena Maghavā – devānaṁ seṭṭhataṁ gato
Appamādaṁ pasaṁsanti -pamādo garahito sadā.
10. Nhờ sự không xao lãng, đức Trời Đế Thích (Maghavā) đi đến vị trí hàng đầu trong số chư Thiên. (Người người) ngợi ca sự không xao lãng; sự xao lãng luôn luôn bị quở trách.

[31] 11. Vui thích không phóng dật,
Tỷ kheo sợ phóng dật,
Bước tới như lửa hừng,
Thiêu kiết sử lớn nhỏ.
11. Appamādarato bhikkhu – pamāde bhayadassi vā
Saññojanaṁ aṇuṁ thūlaṁ dahaṁ aggī’va gacchati.
11. Vị tỳ khưu thích thú ở sự không xao lãng, nhìn thấy nỗi hiểm nguy ở sự xao lãng, ra đi ví như ngọn lửa đang thiêu đốt sự trói buộc nhỏ nhoi và to lớn.

[32] 12. Vui thích không phóng dật,
Tỷ kheo sợ phóng dật,
Không thể bị thối đọa,
Nhất định gần Niết Bàn.
12. Appamādarato bhikkhu – pamāde bhayadassi vā
Abhabbo parihānāya -nibbānass’eva santike.
12. Vị tỳ khưu thích thú ở sự không xao lãng, nhìn thấy nỗi hiểm nguy ở sự xao lãng, không thể đi đến thối đọa, (mà còn) ở rất gần Niết Bàn.

3. PHẨM TÂM - CITTA VAGGA
[33] 1. Tâm hoảng hốt giao động,
Khó hộ trì, khó nhiếp,
Người trí làm tâm thẳng,
Như thợ tên, làm tên.
1.Phandanaṁ capalaṁ cittaṁ durakkhaṁ dunnivārayaṁ
Ujuṁ karoti medhāvī – usukāro’ va tejanaṁ.
1. Tâm chao đảo, thay đổi, khó hộ trì, khó ngăn chặn, người thông minh làm cho tâm được ngay thẳng, ví như thợ làm tên uốn thẳng cây tên.

[34] 2. Như cá quăng lên bờ,
Vất ra ngoài thủy giới;
Tâm này vùng vẫy mạnh,
Hãy đoạn thế lực Ma.
2. Vārijo’va thale khitto – okamokata ubbhato
Pariphandati’midaṁ cittaṁ- māradheyyaṁ pahātave.
2. Ví như con cá bị vớt ra khỏi nước và bị ném ở trên đất liền, tâm này giãy giụa hầu thoát khỏi tầm khống chế của Ma Vương.

[35] 3. Khó nắm giữ, khinh động,
Theo các dục quay cuồng.
Lành thay, điều phục tâm;
Tâm điều, an lạc đến.
3. Dunniggahassa lahuno – yattha kāmanipātino
Cittassa damatho sādhu -cittaṁ dantaṁ sukhāvahaṁ.
3. Tâm khó kiểm soát, nhanh nhạy, có sự lao theo cảnh nó muốn. Tốt đẹp thay sự rèn luyện của tâm! Tâm đã được rèn luyện là nguồn đem lại niềm an lạc.

[36] 4. Tâm khó thấy, tế nhị,
Theo các dục quay cuồng.
Người trí phòng hộ tâm,
Tâm hộ, an lạc đến.
4. Sududdasaṁ sunipuṇaṁ – yatthakāmanipātinaṁ
Cittaṁ rakkhetha medhāvī- cittaṁ guttaṁ sukhāvahaṁ.
4. Tâm rất khó nhận biết, vô cùng vi tế, có sự lao theo cảnh nó muốn, người thông minh nên bảo vệ tâm. Tâm đã được hộ trì là nguồn đem lại niềm an lạc.

[37] 5. Chạy xa, sống một mình,
Không thân, ẩn hang sâu
Ai điều phục được tâm,
Thoát khỏi Ma trói buộc.
5. Dūraṅgamaṁ ekacaraṁ – asarīraṁ guhāsayaṁ –
Ye cittaṁ saññamessati – mokkhanti mārabandhanā.
5. Tâm có sự di chuyển đến nơi xa xôi, độc hành, không có thân xác, có chỗ trú ẩn là hang sâu (trái tim). Những ai sẽ thu thúc tâm thì (sẽ) được thoát khỏi sự trói buộc của Ma Vương.

[38] 6. Ai tâm không an trú,
Không biết chân diệu pháp,
Tịnh tín bị rúng động,
Trí tuệ không viên thành.
6. Anavaṭṭhitacittassa – saddhammaṁ avijānato
Pariplavapasādassa – paññā na paripūrati.
6. Đối với kẻ có tâm không được ổn định, không nhận thức được Chánh Pháp, có niềm tin bị dao động, thì tuệ không hoàn hảo.

[39] 7. Tâm không đầy tràn dục,
Tâm không (hận) công phá,
Ðoạn tuyệt mọi thiện ác,
Kẻ tỉnh không sợ hãi.
7. Anavassutacittassa – ananvāhatacetaso
Puññapāpapahīnassa – natthi jāgarato bhayaṁ.
7. Đối với người đang tỉnh thức, có tâm không bị nhiễm (bởi dục), có ý không bị công kích (bởi sân), đã dứt bỏ thiện và ác, thì không có sự sợ hãi.

[40] 8. Biết thân như đồ gốm,
Trú tâm như thành trì,
Chống Ma với gươm trí ;
Giữ chiến thắng không tham
8. Kumbhūpamaṁ kāyamimaṁ viditvā – nagarūpamaṁ cittamidaṁ thapetvā
Yodetha māraṁ paññāydhena jitañ ca rakkhe anivesano siyā.
8. Sau khi biết được thân này tương tợ chậu đất nung,
sau khi thiết lập tâm này tương tợ thành trì,
nên tấn công Ma Vương bằng vũ khí trí tuệ,
và nên bảo vệ điều đã chiến thắng, nên có sự không ngơi nghỉ.

[41] 9. Không bao lâu thân này,
Sẽ nằm dài trên đất,
Bị vất bỏ, vô thức,
Như khúc cây vô dụng.
9. Aciraṁ vat’ayaṁ kāyo – paṭhaviṁ adhisessati
Chuddho apetaviññāṇo niratthaṁ’va kaḷingaram.
9. Không bao lâu nữa, thân này quả nhiên sẽ nằm dài ở trên đất, bị liệng bỏ đi, tâm thức đã xa lìa, ví như khúc gỗ mục không còn sự lợi ích.

[42] 10. Kẻ thù hại kẻ thù,
Oan gia hại oan gia,
Không bằng tâm hướng tà, [5]
Gây ác cho tự thân.
10. Diso disaṁ yaṁ taṁ kayirā verī vā pana verinaṁ
Micchāpanihitaṁ cittaṁ – pāpiyo naṁ tato kare.
10. Tâm hướng đến sự sai trái có thể gây nên cho người ấy điều còn tồi tệ hơn so với việc mà kẻ địch có thể làm đối với kẻ địch, hoặc kẻ thù hằn đối với kẻ thù hằn.

[43] 11. Ðiều mẹ cha bà con,
Không có thể làm được,
Tâm hướng chánh làm được
Làm được tốt đẹp hơn.
11. Na taṁ mātā pitā kayirā – aññe vā pi ca ñātakā
Sammā panihitaṁ cittaṁ seyyaso naṁ tato kare.
11. Tâm hướng đến sự chân chánh có thể tạo ra cho người ấy điều còn tốt đẹp hơn so với việc mà mẹ cha hoặc luôn cả các thân quyến khác có thể làm cho người ấy.

3. PHẨM BÔNG HOA - PUPPHA VAGGA
[44] 1. Ai chinh phục đất này
Dạ ma, Thiên giới này?
Ai khéo giảng Pháp cú,
Như người khéo hái hoa?
1.Ko imaṁ pathaviṁ vijessati yamalokañ ca imaṁ sadevakaṁ
Ko dhammapadaṁ sudesitaṁ kusalo puppham’iva pacessati.
1. Ai sẽ thấu triệt trái đất này, và thế giới Dạ Ma, thế giới (nhân loại) này luôn cả chư Thiên?
Ai sẽ thu thập lời dạy về Giáo Pháp đã khéo được thuyết giảng, ví như người thiện xảo sẽ thu thập bông hoa?

[45] 2. Hữu học chinh phục đất,
Dạ ma, Thiên giới này.
Hữu học giảng Pháp cú,
Như người khéo hái hoa.
2. Sekho paṭhaviṁ vijessati yamalokañ ca imaṁ sadevakaṁ
Sekho dhammapadaṁ sudesitaṁ kusalo puppha’iva pacessati.
2. Vị Hữu Học sẽ thấu triệt trái đất này,
và thế giới Dạ Ma, thế giới (nhân loại) này luôn cả chư Thiên.
Vị Hữu Học sẽ thu thập lời dạy về Giáo Pháp đã khéo được thuyết giảng,
ví như người thiện xảo sẽ thu thập bông hoa.

[46] 3. Biết thân như bọt nước,
Ngộ thân là như huyễn,
Bẻ tên hoa của ma,
Vượt tầm mắt thần chết.
3. Pheṇūpamaṁ kāyamimaṁ viditvā – marīcidhammaṁ abhisambudhāno
Chetvāna mārassa papupphakāni – adassanaṁ maccurājassa acche.
3. Sau khi biết được thân này ví như bọt nước,
trong khi biết rõ nó có tính chất giả tạm,
nên chặt đứt những nụ hoa của Ma Vương
và vượt khỏi tầm nhìn của Thần Chết.

[47] 4. Người nhặt các loại hoa,
Ý đắm say, tham nhiễm,
Bị thần chết mang đi,
Như lụt trôi làng ngủ.
4. Pupphāni h’eva pacinamtaṁ
byāssattamanasaṁ naraṁ
Suttaṁ gāmaṁ mahogho’va maccu ādāya gacchati.
4. Thần Chết ra đi mang theo người có tâm ý bị đắm nhiễm đang thu thập chỉ mỗi các bông hoa, ví như cơn lũ lớn cuốn trôi ngôi làng đã ngủ say.

[48] 5. Người nhặt các loại hoa,
Ý đắm say tham nhiễm,
Các dục chưa thỏa mãn,
Ðã bị chết chinh phục.
5. Pupphāni h’eva pacinantaṁ – byāsattamanasaṁ naraṁ
Atittaṁ yeva kāmesu – antako kurute vasaṁ.
5. Thần Chết thể hiện quyền lực với người có tâm ý bị đắm nhiễm đang thu thập chỉ mỗi các bông hoa, nhưng chưa được thỏa mãn về các dục.

[49] 6. Như ong đến với hoa,
Không hại sắc và hương,
Che chở hoa, lấy nhụy.
Bậc Thánh đi vào làng.
6. Yathā,pi bhamaro pupphaṁ – vaṇṇagandhaṁ aheṭhayaṁ
Paleti rasam’ādāya – evaṁ gāme munī care.
6. Cũng giống như loài ong lấy nhụy rồi bay đi mà không gây tổn hại đến bông hoa, vẻ đẹp, và hương thơm (của nó), bậc hiền trí đi (khất thực) ở trong làng là tương tự như thế.

[50] 7. Không nên nhìn lỗi người,
Người làm hay không làm.
Nên nhìn tự chính mình.
Có làm hay không làm.
7. Na paresaṁ vilomāni – na paresaṁ katākataṁ
Attano’va avekkheya -katāni akatāni ca.
7. Không nên (soi mói) các việc sái quấy của những người khác, không nên (soi mói) việc đã làm hoặc chưa làm của họ, mà nên xem xét những việc đã làm và chưa làm của chính bản thân.

[51] 8. Như bông hoa tươi đẹp,
Có sắc nhưng không hương.
Cũng vậy, lời khéo nói,
Không làm, không kết quả.
8. Yathā’pi ruciraṁ pupphaṁ – vaṇṇavantaṁ agandhakaṁ
Evaṁ subhāsitā vācā – aphalā hoti akubbato.
8. Cũng giống như bông hoa xinh đẹp có sắc không hương, tương tự như vậy lời nói được khéo nói của người không thực hành thì không có kết quả.

[52] 9. Như bông hoa tươi đẹp,
Có sắc lại thêm hương;
Cũng vậy, lời khéo nói,
Có làm, có kết quả
9. Yātha’pi ruciram pupphaṁ – vaṇṇavantaṁ sagandhakaṁ
Evaṁ subhāsitā vācā – saphalā hoti sakubbato.
9. Cũng giống như bông hoa xinh đẹp có sắc có hương, tương tự như vậy lời nói được khéo nói của người có thực hành thì có kết quả.

[53] 10. Như từ một đống hoa,
Nhiều tràng hoa được làm.
Cũng vậy, thân sanh tử,
Phải làm nhiều việc lành.
10. Yathā’pi puppharāsimhā – kayirā mālāguṇe bahū
Evaṁ jātena maccena- kattabbaṁ kusalaṁ bahuṁ.
10. Cũng giống như từ đống bông hoa người ta có thể tạo thành nhiều loại tràng hoa, tương tự như thế nhiều việc thiện nên được làm bởi người đã được sanh ra (ở trên đời).

[54] 11. Hương các loại hoa thơm
Không ngược bay chiều gió
Nhưng hương người đức hạnh
Ngược gió khắp tung bay
Chỉ có bậc chân nhân
Tỏa khắp mọi phương trời.
11. Na pupphagandho paṭivātam eti – na candanaṁ tagaramallikā vā
Satañ ca gandho paṭivātam eti – sabbā disā sappuriso pavāti.
11. Hương thơm của bông hoa không bay ngược chiều gió, (hương thơm của) gỗ trầm, gỗ tagara, hoặc hoa nhài cũng không. Còn hương thơm của những người tốt bay ngược chiều gió, bậc chân nhân tỏa hương (thơm giới hạnh) tất cả các phương.

[55] 12. Hoa chiên đàn, già la,
Hoa sen, hoa vũ quý,
Giữa những hương hoa ấy,
Giới hương là vô thượng.
12. Candanaṁ tagaraṁ vā’pi – uppalaṁ atha vassikī
Etesaṁ gandhajātānaṁ -sīlagandho anuttaro.
12. Gỗ trầm, gỗ tagara, hoặc ngay cả hoa sen, rồi hoa nhài, trong số các loại có hương thơm này, hương thơm của giới là vô thượng.

[56] 13. Ít giá trị hương này,
Hương già la, chiên đàn;
Chỉ hương người đức hạnh,
Tối thượng tỏa Thiên giới.
13. Appamatto ayaṁ gandho – yā’yaṁ tagaracandanī
Yo ca sīlavataṁ gandho – vāti devesu uttamo.
13. Hương thơm này của gỗ tagara hay gỗ trầm có phẩm lượng ít ỏi, còn hương thơm của các bậc có giới hạnh thổi giữa chư Thiên là tối thượng.

[57] 14. Nhưng ai có giới hạnh,
An trú không phóng dật,
Chánh trí, chơn giải thoát,
Ác ma không thấy đường.
14. Tesaṁ sampannasīlānaṁ – appamādavihārinaṁ
Sammadannāvimuttānaṁ -1māro maggaṁ na vindati.
14. Đối với những vị có giới đã được thành tựu, đang sống không xao lãng, đã được giải thoát nhờ vào hiểu biết chân chánh, Ma Vương không tìm ra đạo lộ của những vị ấy.

[58] 15. Như giữa đống rác nhớp,
Quăng bỏ trên đường lớn,
Chỗ ấy hoa sen nở,
Thơm sạch, đẹp ý người.
15. Yathā sankāradhānasmiṁ – ujjhitasmiṁ mahāpathe
Padumaṁ tattha jāyetha – sucigandhaṁ manoramaṁ.
15. Giống như tại đống rác đã được quăng bỏ ở con đường lớn, tại nơi ấy hoa sen có thể sanh trưởng, có mùi thơm tinh khiết, làm thích ý.

[59] 16. Cũng vậy giữa quần sanh,
Uế nhiễm, mù, phàm tục,
Ðệ tử bậc Chánh Giác,
Sáng ngời với Tuệ Trí.
16. Evaṁ saṅkārabhūtesu – andhabhūte puthujjane
Atirocati paññāya -sammāsambudhasāvako.
16. Tương tự như thế, ở giữa các chúng sanh rác rưởi, ở giữa hạng phàm nhân có trạng thái tăm tối, vị Thinh Văn của đấng Chánh Đẳng Giác rực sáng với trí tuệ.

4. PHẨM KẺ NGU - BĀLA VAGGA
[60] 1. Ðêm dài cho kẻ thức,
Ðường dài cho kẻ mệt,
Luân hồi dài, kẻ ngu,
Không biết chơn diệu pháp.
1. Dīghā jāgarato ratti – dīghaṁ santassa yojanaṁ
Dīgho bālānaṁ samsāro -saddhammaṁ avijānataṁ.
1. Đêm là dài đối với người đang thức, một do-tuần là dài đối với người bị mệt mỏi, luân hồi là dài đối với những kẻ ngu không nhận biết Diệu Pháp.

[61] 2. Tìm không được bạn đường,
Hơn mình hay bằng mình,
Thà quyết sống một mình,
Không bè bạn kẻ ngu.
2. Carañ ce nādhigaccheyya – seyyaṁ sadisam attano
Ekacariyaṁ dalhaṁ kayirā natthi bāle sahāyatā.
2. Trong khi du hành, nếu không đạt được người giỏi hơn (hoặc) tương đương so với bản thân, nên vững chãi thực hiện việc du hành một mình; không có tình bạn hữu ở kẻ ngu.

[62] 3. Con tôi, tài sản tôi,
Người ngu sanh ưu não,
Tự ta, ta không có,
Con đâu, tài sản đâu.
3. Puttā m’atthi dhanaṁ m’atthi iti bālo vihaññati
Attā hi attano natthi kuto puttā kuto dhanam.
3. Tôi có các con trai, tôi có tài sản,’ (nghĩ thế) kẻ ngu bị sầu khổ. Chính bản thân của mình còn không có, từ đâu mà có các con trai, từ đâu mà có tài sản?

[63] 4. Người ngu nghĩ mình ngu,
Nhờ vậy thành có trí.
Người ngu tưởng có trí,
Thật xứng gọi chí ngu.
4. Yo bālo maññati bālyaṁ – paṇḍito vā’pi tena so
Bālo ca paṇḍitamānī – sa ve bālo’ti vuccati.
4. Người ngu nào biết được sự ngu dốt (của mình), do việc ấy người ấy cũng là sáng suốt. Còn kẻ ngu (nào) có sự tự hào là sáng suốt, chính kẻ ấy được gọi là ‘ngu.’

[64] 5. Người ngu, dầu trọn đời,
Thân cận người có trí,
Không biết được Chánh pháp,
Như muỗng với vị canh.
5. Yāvajīvam’pi ce bālo – paṇḍitaṁ payirupāsati
Na so dhammaṁ vijānāti – dabbī sūparasaṁ yathā.
5. Kẻ ngu nếu thân cận bậc trí cho đến trọn đời mà kẻ ấy không nhận thức được Giáo Pháp thì giống như cái muỗng (không biết được) vị của món xúp.

[65] 6. Người trí, dầu một khắc,
Thân cận người có trí,
Biết ngay chân diệu pháp,
Như lưỡi với vị canh.
6. Muhuttam api ce viññu -paṇḍitaṁ payirupāsati
Khippaṁ dhammaṁ vijānati Jivhā sūparasaṁ yathā.
6. Người hiểu biết nếu thân cận bậc trí dầu chỉ phút chốc mà mau chóng nhận thức được Giáo Pháp thì giống như cái lưỡi (biết được) vị của món xúp.

[66] 7. Người ngu si thiếu trí,
Tự ngã thành kẻ thù.
Làm các nghiệp không thiện,
Phải chịu quả đắng cay.
7. Caranti bālā dummedhā -amitten’eva attanā
Karontā pāpakaṁ kammaṁ -yaṁ hoti kaṭukapphalaṁ.
7. Trong khi làm nghiệp ác là việc làm có quả báo đắng cay, những kẻ ngu có trí tồi cư xử đối với bản thân như là (cư xử đối với) kẻ thù.

[67] 8. Nghiệp làm không chánh thiện,
Làm rồi sanh ăn năn,
Mặt nhuốm lệ, khóc than,
Lãnh chịu quả dị thục.
8. Na taṁ kammaṁ kataṁ sādhu -yaṁ katvā anutappati
Yassa assumukho rodaṁ vipākaṁ paṭisevati.
8. Việc gì sau khi làm mà bị hối hận, và nhận lãnh quả thành tựu của việc ấy với khuôn mặt đầy nước mắt, khóc lóc, thì việc làm ấy đã được làm một cách không tốt đẹp.

[68] 9. Và nghiệp làm chánh thiện,
Làm rồi không ăn năn,
Hoan hỷ, ý đẹp lòng,
Hưởng thọ quả dị thục.
9. Tañ ca kammaṁ kataṁ sādhu -yaṁ katvā nānutappati
Yassa patīto sumano -vipākaṁ paṭisevati.
9. Còn việc gì sau khi làm mà không bị hối hận, và nhận lãnh quả thành tựu của việc ấy được vừa lòng thích ý, thì việc làm ấy đã được làm một cách tốt đẹp.

[69] 10. Người ngu nghĩ là ngọt,
Khi ác chưa chín muồi;
Ác nghiệp chín muồi rồi,
Người ngu chịu khổ đau.
10. Madhū’va 1 maññatī bālo -yāva pāpaṁ na paccati
Yadā ca paccatī pāpaṁ -atha bālo dukkhaṁ nigacchati.
10. Cho đến khi nào điều ác chưa được chín muồi thì kẻ ngu còn nghĩ về nó như là mật ngọt, nhưng đến khi điều ác được chín muồi thì kẻ ngu đọa vào khổ đau.

[70] 11. Tháng tháng với ngọn cỏ,
Người ngu có ăn uống
Không bằng phần mười sáu
Người hiểu pháp hữu vi
11. Māse māse kusaggena – bālo bhuñjetha bhojanaṁ
Na so saṅkhatadhammānaṁ kalaṁ agghati soḷasiṁ.
11. Kẻ ngu có thể thọ dụng vật thực bằng đầu ngọn cỏ kusa theo từng tháng một, kẻ ấy không giá trị bằng một phần mười sáu so với những người đã hiểu được Giáo Pháp.

[71] 12. Nghiệp ác đã được làm,
Như sữa, không đông ngay,
Cháy ngầm theo kẻ ngu,
Như lửa tro che đậy.
12. Na hi pāpaṁ kataṁ kammaṁ sajju khīraṁ’va muccati
Dahantaṁ bālaṁ anveti -bhasmacchanno’va pāvako.
12. Ví như sữa không trở chua ngay lập tức, nghiệp ác đã làm không trổ quả liền liền, nó theo đuổi kẻ ngu, đốt nóng, ví như ngọn lửa đã được phủ tro.

[72] 13. Tự nó chịu bất hạnh,
Khi danh đến kẻ ngu.
Vận may bị tổn hại,
Ðầu nó bị nát tan.
13. Yāvadeva anatthāya -ñattaṁ bālassa jāyati
Hanti bālassa sukkaṁsaṁ -muddham assa vipātayaṁ.
13. Trạng thái được nổi tiếng sanh lên cho kẻ ngu cũng chỉ đem lại điều bất lợi, nó làm vỡ tan cái đầu (trí tuệ) và hủy hoại phần thánh thiện của kẻ ngu này.

[73] 14. Ưa danh không tương xứng,
Muốn ngồi trước tỷ kheo,
Ưa quyền tại tịnh xá,
Muốn mọi người lễ kính.
14. Asataṁ bhāvanam iccheyya purekkhārañ ca bhikkhusu
Avāsesu ca issariyaṁ – pūjā parakulesu ca.
14. (Kẻ ngu) có thể ước ao sự tiến bộ không có thực, sự nổi bật trong số các vị tỳ khưu, quyền hành ở các trú xứ, và sự cúng dường ở các gia đình khác.

[74] 15. Mong cả hai tăng, tục,
Nghĩ rằng (chính ta làm).
Trong mọi việc lớn nhỏ,
Phải theo mệnh lệnh ta ”
Người ngu nghĩ như vậy
Dục và mạn tăng trưởng
15. Mam eva kata maññantu -gihī pabbajitā ubho
Mam ev’ativasā assu -kiccākiccesu kismici
Iti bālassa saṅkappo – icchā māno ca vaḍḍhati.
15. ‘Mong sao cả hai hàng tại gia và xuất gia đều nghĩ rằng việc đã được làm bởi chính ta, mong sao họ đều chịu sự điều khiển của chính ta trong mọi công việc lớn nhỏ,’ suy nghĩ của kẻ ngu là thế ấy, lòng ham muốn và ngã mạn của kẻ ấy tăng trưởng.

[75] 16. Khác thay duyên thế lợi,
Khác thay đường Niết Bàn.
Tỷ kheo, đệ tử Phật,
Hãy như vậy thắng tri.
Chớ ưa thích cung kính,
Hãy tu hạnh viễn ly.
16. Aññā hi lābhūpanisā aññā nibbānagāminī
Evam etaṁ abhiññāya – bhikkhu Buddhassa sāvako
Sakkāraṁ nābhinandeyya -vivekam anubrūhaye.
16. Phương thức đưa đến lợi lộc là cái khác, còn đường lối đi đến Niết Bàn là cái khác, sau khi biết rõ điều này như thế, vị tỳ khưu đệ tử của đức Phật chớ nên thích thú sự tôn vinh, nên thực hành hạnh độc cư.

5. PHẨM BẬC SÁNG SUỐT - PANDITA VAGGA
[76] 1. Nếu thấy bậc hiền trí,
Chỉ lỗi và khiển trách,
Như chỉ chỗ chôn vàng
Hãy thân cận người trí!
Thân cận người như vậy,
Chỉ tốt hơn, không xấu.
1. Nidhīnaṁ’va pavattāraṁ -yaṁ passe vajjadassinaṁ
Niggayhavādiṁ medhāviṁ -tādisaṁ paṇḍitaṁ bhaje
Tādisaṁ bhajamānassa -seyyo hoti na pāpiyo.
1. Nên nhận biết người thông minh, có sự nhìn thấy được lỗi lầm, có lời nói khiển trách, như là người chỉ ra những của cải chôn giấu (cho mình); nên giao thiệp với người sáng suốt như thế ấy. Đối với người giao thiệp với vị như thế ấy, thì trở nên tốt hơn, không có xấu hơn.

[77] 2. Những người hay khuyên dạy,
Ngăn người khác làm ác,
Ðược người hiền kính yêu,
Bị người ác không thích.
2. Ovadeyyānusāseyya -asabbhā ca nivāraye
Sataṁ hi so piyo hoti -asataṁ hoti appiyo.
2. Người (nào) có thể giáo giới, có thể chỉ dạy, có thể ngăn chặn điều không tốt lành, thật vậy đối với những người tốt thì người ấy được yêu mến, đối với những người xấu thì không được yêu mến.

[78] 3. Chớ thân với bạn ác,
Chớ thân kẻ tiểu nhân.
Hãy thân người bạn lành,
Hãy thân bậc thượng nhân.
3. Na bhaje pāpake mitte – na bhaje purisādhame
Bhajetha mitte kalyāṇe -bhajetha purisuttame.
3. Không nên giao thiệp với những bạn xấu, không nên giao thiệp với những người đê tiện. Nên giao thiệp với những người bạn lành, nên giao thiệp với những người cao thượng.

[79] 4. Pháp hỷ đem an lạc,
Với tâm tư thuần tịnh;
Người trí thường hoan hỷ,
Với pháp bậc Thánh thuyết.
4. Dhammapīti sukkaṁ seti -vippasannena cetasā
Ariyappavedite dhamme -sadā ramati paṇḍito.
4. Người có sự hoan hỷ trong Giáo Pháp ngủ một cách an lạc với tâm ý thanh tịnh. Người sáng suốt luôn luôn hứng thú trong Giáo Pháp đã được các bậc Thánh tuyên thuyết.

[80] 5. Người trị thủy dẫn nước,
Kẻ làm tên nắn tên,
Người thợ mộc uốn gỗ,
Bậc trí nhiếp tự thân.
5. Udakaṁ hi nayanti nettikā -usukārā namayanti tejanaṁ
Dāruṁ namayanti tacchakā -attānaṁ damayanti paṇḍitā. .
5. Thật vậy, những người đào kênh dẫn nước, những thợ làm tên uốn nắn cây tên, những người thợ mộc tạo dáng thanh gỗ, những người sáng suốt rèn luyện bản thân.

[81] 6. Như đá tảng kiên cố,
Không gió nào giao động,
Cũng vậy, giữa khen chê,
Người trí không giao động.
6. Selo yathā ekaghano – vātena na samīrati
Evaṁ nindāpasaṁsāsu – na samiñjanti paṇḍitā.
6. Giống như tảng đá rắn chắc không bị lay động bởi gió, tương tự như thế các bậc sáng suốt không dao động ở các sự chê khen.

[82] 7. Như hồ nước sâu thẳm,
Trong sáng, không khuấy đục,
Cũng vậy, nghe chánh pháp,
Người trí hưởng tịnh lạc.
7. Yathā’pi rahado gambhīro -vippasanno anāvilo
Evaṁ dhammāni sutvāna -vippasīdanti paṇḍitā.
7. Cũng giống như hồ nước sâu, trong sạch, không bị vẩn đục, tương tự như thế, sau khi lắng nghe (các lời giảng về) Giáo Pháp các bậc sáng suốt được an tịnh.

[83] 8. Người hiền bỏ tất cả,
Người lành không bàn dục,
Dầu cảm thọ lạc khổ,
Bậc trí không vui buồn.
8. Sabbattha ve sappurisā cajanti na kāmakāmā lapayanti santo
Sukhena phuṭṭhā athavā dukhena na uccāvacaṁ paṇḍitā dassayanti.
8. Thật vậy, các bậc chân nhân từ bỏ mọi thứ, các bậc đạo đức không đề cập đến các ước muốn về dục lạc.
Bị xúc chạm bởi hạnh phúc hay bởi khổ đau, các bậc sáng suốt không tỏ ra phấn khởi hay chán nản.

[84] 9. Không vì mình, vì người.
Không cầu được con cái,
Không tài sản quốc độ,
Không cầu mình thành tựu,
Với việc làm phi pháp.
Vị ấy thật trì giới,
Có trí tuệ, đúng pháp.
9. Na attahetu na parassa hetu – na puttamicche na dhanaṁ na ratthaṁ
Na iccheyya adhammena samiddhim attano – sa sīlavā paññavā dhammiko siyā.
9. Người không vì lý do của bản thân, không vì lý do của kẻ khác,
không ao ước con trai, không ao ước tài sản, không ao ước quốc độ,
không mong muốn sự thành tựu cho bản thân một cách sái quấy,
người ấy là người chân chánh, có giới hạnh, có trí tuệ.

[85] 10. Ít người giữa nhân loại,
Ðến được bờ bên kia
Còn số người còn lại,
Xuôi ngược chạy bờ này.
9. Appakā te manussesu – ye janā pāragāmino
Athāyaṁ itarā pajā -tīramevānudhāvati.
10. Ở loài người, những người có sự đi đến bờ kia là ít ỏi, trái lại những người khác chỉ chạy dọc theo bờ (bên này).

[86] 11. Những ai hành trì pháp,
Theo chánh pháp khéo dạy,
Sẽ đến bờ bên kia,
Vượt ma lực khó thoát.
11. Ye ca kho sammadakkhāte -dhamme dhammānuvattino
Te janā pāramessanti -maccudheyyaṁ suduttaraṁ.
11. Và những người nào, khi pháp đã được tuyên thuyết đúng đắn, có sự hành trì theo pháp, những người ấy sẽ đi đến bờ kia, (sau khi vượt qua) lãnh vực của Ma Vương rất khó vượt qua.

[87] 12. Kẻ trí bỏ pháp đen,
Tu tập theo pháp trắng.
Bỏ nhà, sống không nhà,
Sống viễn ly khổ lạc.
12. Kaṇhaṁ dhammaṁ vippahāya – sukkaṁ bhāvetha paṇḍito
Okā anokaṁ āgamma – viveke yattha dūramaṁ.
12. Bậc sáng suốt, sau khi lìa bỏ pháp đen, nên phát triển pháp trắng, sau khi từ nhà đi đến trạng thái không nhà, ở chỗ tách biệt là nơi khó có sự thích thú.

[88] 13. Hãy cầu vui Niết Bàn,
Bỏ dục, không sở hữu,
Kẻ trí tự rửa sạch,
Cấu uế từ nội tâm.
13. Tatrābhiratim iccheyya -hitvā kāme akiñcano
Pariyodapeyya attānaṁ -cittaklesehi paṇḍito.
13. Sau khi từ bỏ các dục, không còn có vật gì, vị sáng suốt nên mong mỏi sự thỏa thích ở nơi ấy, nên thanh lọc bản thân khỏi các điều ô nhiễm của tâm.

[89] 14. Những ai với chánh tâm,
Khéo tu tập giác chi,
Từ bỏ mọi ái nhiễm,
Hoan hỷ không chấp thủ.
Không lậu hoặc, sáng chói,
Sống tịch tịnh ở đời.
14. Yesaṁ sambodhiaṅgesu sammā cittaṁ subhāvitaṁ
Ādānapaṭinissagge -anupādāya ye ratā
Khīṇāsavā jutīmanto – te loke parinibbutā.
14. Những vị nào có tâm đã khéo được tu tập ở các chi phần đưa đến Giác Ngộ, được thích thú trong việc xả bỏ các sự bám víu, không còn chấp thủ, những vị ấy có các lậu hoặc đã được cạn kiệt, có sự chói sáng, đã đạt Niết Bàn ở thế gian.

7. PHẨM A-LA-HÁN - ARAHANTA VAGGA
[90] 1. Ðích đã đến, không sầu,
Giải thoát ngoài tất cả,
Ðoạn trừ mọi buộc ràng,
Vị ấy không nhiệt não.
1. Gataddhino visokassa -vippamuttassa sabbadhi
Sabbaganthappahīnassa -pariḷāho na vijjati.
1. Đối với người đã trải qua cuộc hành trình, không còn sầu muộn, đã được giải thoát về mọi phương diện, đã dứt bỏ mọi trói buộc, sự bực bội là không được biết đến.

[91] 2. Tự sách tấn, chánh niệm,
Không thích cư xá nào,
Như ngỗng trời rời ao,
Bỏ sau mọi trú ẩn.
2. Uyyunjanti satimanto –
na nikete ramanti te
Hamsa ûva pallalaṁ hitvā –
okaṁ okaṁ jahanti te.
2. Các vị nỗ lực, có niệm, các vị ấy không thích thú về chỗ ở. Ví như những con thiên nga từ bỏ hồ nước, các vị ấy từ bỏ mọi trú xứ.

[92] 3. Tài sản không chất chứa,
Ăn uống biết liễu tri,
Tự tại trong hành xứ,
“Không vô tướng, giải thoát, ”
Như chim giữa hư không,
Hướng chúng đi khó tìm.
3. Yesaṁ sannicayyo natthi -ye pariññātabhojanā
Suññato animitto ca – vimakkho yassa gocaro
Ākāse ûva sakuntānaṁ – gati tesaṁ durannayā.
3. Các vị nào không có sự tích lũy, đã hiểu biết toàn diện về vật thực, có không tánh và vô tướng giải thoát là hành xứ của họ, lộ trình của các vị ấy là khó theo dõi, ví như đường bay của những con chim ở trên không trung.

[93] 4. Ai lậu hoặc đoạn sạch,
Ăn uống không tham đắm,
Tự tại trong hành xứ,
“Không, vô tướng giải thoát. ”
Như chim giữa hư không,
Dấu chân thật khó tìm.
4. Yassāsavā parikkhīṇā – āhāre ca anissito
Suññato animitto ca – vimokkho yassa gocaro
Ākāse’va sakuntānaṁ – padaṁ tassa durannayaṁ.
4. Vị nào có các lậu hoặc đã được hoàn toàn cạn kiệt, và không bị lệ thuộc về vật thực, có không tánh và vô tướng giải thoát là hành xứ của mình, vết chân của vị ấy là khó theo dõi, ví như đường bay của những con chim ở trên không trung.

[94] 5. Ai nhiếp phục các căn,
Như đánh xe điều ngự,
Mạn trừ, lậu hoặc dứt,
Người vậy, Chư Thiên mến.
5. Yass’indriyāni samathaṁ gatāni – assā yuthā sārathinā sudantā
Pahīnamānassa anāsavassa – devā’pi tassa pihayanti tādino.
5. Vị nào có các giác quan đã đi đến sự yên lặng, giống như những con ngựa đã khéo được huấn luyện bởi người đánh xe, có ngã mạn đã được dứt bỏ, không còn lậu hoặc, ngay cả chư Thiên cũng yêu mến vị có đức hạnh như thế ấy.

[95] 6. Như đất, không hiềm hận,
Như cột trụ, kiên trì,
Như hồ, không bùn nhơ,
Không luân hồi, vị ấy.
6. Paṭhavi samo no virujjhati – indakhīlūpamo tādi subbato
Rahado’va apetakaddamo – samsārā na bhavanti tādino.
6. Giống như trái đất không chống đối, tựa như cột trụ chống, vị có sự hành trì tốt đẹp như thế ấy ví như hồ nước đã được vét bùn, không còn các việc luân hồi đối với vị như thế ấy.

[96] 7. Người tâm ý an tịnh,
Lời an, nghiệp cũng an,
Chánh trí, chơn giải thoát,
Tịnh lạc là vị ấy.
7. Santaṁ tassa manaṁ hoti -santā vācā ca kamma ca
Sammadaññāvimuttassa – upasantassa tādino.
7. Đối với vị đã được giải thoát do sự hiểu biết đúng đắn, đã được an tịnh như thế ấy, suy nghĩ của vị ấy là thanh tịnh, lời nói và hành động đều thanh tịnh.

[97] 8. Không tin, hiểu vô vi.
Người cắt mọi hệ lụy
Cơ hội tận, xả ly
Vị ấy thật tối thượng.
8. Assaddho akataññū ca – sandhicchedo ca yo naro
Hatāvakāso vantāso – sa ve uttamaporiso.
8. Người nào không tà tín, biết sự không tạo tác (Niết Bàn), cắt đứt sự tiếp nối (tái sanh), đã tiêu diệt duyên cớ, đã buông bỏ niềm ước muốn, chính vị ấy là con người tối thượng.

[98] 9. Làng mạc hay rừng núi
Thung lũng hay đồi cao,
La Hán trú chỗ nào,
Ðất ấy thật khả ái
9. Gāme vā yadī vā’ raññe – ninne vā yadi vā thale
Yatthārahanto viharanti – taṁ bhūmiṁ rāmaṇeyyakaṁ.
9. Cho dầu ở làng, hoặc là ở rừng, cho dầu ở thung lũng hoặc ở cao nguyên, nơi nào các vị A-la-hán cư ngụ, vùng đất ấy thật đáng ưa thích.

[99] 10. Khả ái thay núi rừng,
Chỗ người phàm không ưa,
Vị ly tham ưa thích,
Vì không tìm dục lạc.
10. Ramaṇīyāni araññāni – yattha na ramatī jano
Vītarāgā ramissanti – na te kāmagavesino.
10. Các khu rừng đáng ưa thích là nơi dân chúng không ưa thích. Những vị có tham ái đã lìa sẽ thích thú, họ không có sự tầm cầu dục lạc.

8. PHẨM NGÀN - SAHASSA VAGGA
[100] 1. Dầu nói ngàn ngàn lời,
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn một câu nghĩa,
Nghe xong, được tịnh lạc.
1. Sahassam api ce vācā – anatthapadasaṁhitā
Ekaṁ gāthāpadaṁ seyyo – yaṁ sutvā upasammati.
1. Nếu một ngàn lời nói mà chỉ chứa đựng những từ vô nghĩa, thì một từ có ý nghĩa là tốt hơn, sau khi nghe nó được an tịnh.

[101] 2. Dầu nói ngàn câu kệ
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn nói một câu,
Nghe xong, được tịnh lạc.
2. Sahassam api ce gāthā – anatthapadasaṁhitā
Ekaṁ gāthāpadaṁ seyyo – yaṁ sutvā upasammati.
2. Nếu một ngàn câu kệ mà chỉ chứa đựng những từ vô nghĩa, thì một chữ của câu kệ là tốt hơn, sau khi nghe nó được an tịnh.

[102] 3. Dầu nói trăm câu kệ
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn một câu pháp,
Nghe xong, được tịnh lạc.
3. Yo ca gāthāsataṁ bhāse – anatthapadasaṁhitā
Ekaṁ gāthāpadaṁ seyyo – yaṁ sutvā upasammati.
3. Nếu người nào nói một trăm câu kệ chứa đựng những từ vô nghĩa, thì (nói) một câu Pháp là tốt hơn, sau khi nghe nó được an tịnh.

[103] 4. Dầu tại bãi chiến trường
Thắng ngàn ngàn quân địch,
Tự thắng mình tốt hơn,
Thật chiến thắng tối thượng.
4. Yo sahassaṁ sahassena – saṅgāme mānuse jine
Ekañ ca jeyya m’ attānaṁ – sa ve saṅgāmajuttamo.
4. Người nào có thể chiến thắng một ngàn người một ngàn lần ở chiến trường, và người có thể chiến thắng mỗi một bản thân mình, người ấy quả thật là tối thượng trong số những người chiến thắng ở chiến trường.

[104] 5. Tự thắng, tốt đẹp hơn,
Hơn chiến thắng người khác.
Người khéo điều phục mình,
Thường sống tự chế ngự.
5. Attā have jitaṁ seyyo – yā cā’yaṁ itarā pajā
Attadantassa posassa – niccaṁ saññatacārino.
5. Đúng vậy, đối với con người đã rèn luyện bản thân, có hành vi được chế ngự thường xuyên, chiến thắng bản thân là tốt hơn chiến thắng những người khác.

[105] 6. Dầu Thiên Thần, Thát Bà,
Dầu Ma vương, Phạm Thiên
Không ai chiến thắng nổi,
Người tự thắng như vậy.
6. N’ eva devo na gandhabbo – na māro saha brahmunā jitaṁ apajitaṁ kayirā – tathārūpassa jantuno.
6. Không phải vị Trời, không phải vị Càn-thát-bà, không phải Ma Vương cùng với Phạm Thiên có thể làm cho sự chiến thắng của con người có tính chất như thế trở thành chiến bại.

[106] 7. Tháng tháng bỏ ngàn vàng,
Tế tự cả trăm năm,
Chẳng bằng trong giây lát,
Cúng dường bậc tự tu.
Cùng dường vậy tốt hơn,
Hơn trăm năm tế tự.
7. Māse māse sahassena – yo yajetha sataṁ samaṁ
Ekañ ca bhāvitattānaṁ – muhuttam api pūjaye
Sā y’eva pūjanā seyyo – yañ ce vassasataṁ hutaṁ.
7. Người cúng tế một ngàn (đồng tiền) hàng tháng trong một trăm năm, và người lễ bái đến một vị có bản thân đã được tu tập dầu chỉ trong phút chốc, chính việc lễ bái ấy là tốt hơn việc tế lễ một trăm năm.

[107] 8. Dầu trải một trăm năm,
Thờ lửa tại rừng sâu,
Chẳng bằng trong giây lát,
Cúng dường bậc tự tu.
Cúng dường vậy tốt hơn,
Hơn trăm năm tế tự.
8. Yo ce vassasataṁ jantu – aggiṁ paricare vane
Ekañ ca bhāvitattānaṁ – muhuttam api pūjaye
Sā y’eva pūjanā seyyo – yañ ce vassasataṁ hutaṁ.
8. Người hầu cận ngọn lửa ở khu rừng trong một trăm năm, và người lễ bái đến một vị có bản thân đã được tu tập dầu chỉ trong phút chốc, chính việc lễ bái ấy là tốt hơn việc tế lễ một trăm năm.

[108] 9. Suốt năm cúng tế vật,
Ðể cầu phước ở đời.
Không bằng một phần tư
Kính lễ bậc chánh trực.
9. Yaṁ kiñci iṭṭham va hutam va loke – saṁvaccharaṁ yajetha puññapekho
Sabbam pi taṁ na catubhāgameti – abhivādanā ujjugatesu seyyo.
9. Người mong mỏi phước báu có thể cúng tế bất cứ vật cúng tế hoặc vật tế lễ nào ở thế gian trọn năm, toàn bộ việc ấy cũng không đạt được một phần tư, việc đảnh lễ ở các vị chánh trực là tốt hơn.

[109] 10. Thường tôn trọng, kính lễ
Bậc kỳ lão trưởng thượng,
Bốn pháp được tăng trưởng:
Thọ, sắc, lạc, sức mạnh.
10. Abhivādanasīlissa – niccaṁ vaddhāpacāyino
Cattāro dhammā vaḍḍhanti – āyu vaṇṇo sukhaṁ balaṁ.
10. Bốn pháp: tuổi thọ, sắc đẹp, an vui, sức mạnh tăng trưởng đến người có tập tính đảnh lễ và thường xuyên có sự kính trọng đến các bậc trưởng thượng.

[110] 11. Dầu sống một trăm năm
Ác giới, không thiền định,
Tốt hơn sống một ngày,
Trì giới, tu thiền định.
11. Yo ca vassasataṁ jīve -dussīlo asamāhito
Ekāhaṁ jīvitaṁ seyyo -sīlavantassa jhāyino.
11. Và người nào có thể sống một trăm năm, có giới xấu xa, không định tĩnh, mạng sống một ngày của người có giới hạnh, có thiền, là tốt hơn.

[111] 12. Ai sống một trăm năm,
Ác tuệ, không thiền định.
Tốt hơn sống một ngày,
Có tuệ, tu thiền định.
12. Yo ca vassasataṁ jīve -duppañño asamāhito
Ekāhaṁ jīvitaṁ seyyo -paññavantassa jhāyino.
12. Và người nào có thể sống một trăm năm, thiếu trí tuệ, không định tĩnh, mạng sống một ngày của người có tuệ, có thiền, là tốt hơn.

[112] 13. Ai sống một trăm năm,
Lười nhác không tinh tấn,
Tốt hơn sống một ngày
Tinh tấn tận sức mình.
13. Yo ca vassasataṁ jīve -kusīlo hīnavīriyo
Ekāhaṁ jīvitaṁ seyyo -viriyam ārabhato daḷhaṁ.
13. Và người nào có thể sống một trăm năm, lười biếng, có sự tinh tấn thấp kém, mạng sống một ngày của người đang ra sức tinh tấn một cách vững chãi là tốt hơn.

[113] 14. Ai sống một trăm năm,
Không thấy pháp sinh diệt,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp sinh diệt.
14. Yo ca vassasatam jīve – apassaṁ udayavyayaṁ
Ekāhaṁ jīvitaṁ seyyo – passato udayavyayaṁ.
14. Và người nào có thể sống một trăm năm, không nhìn thấy sự sanh và diệt, mạng sống một ngày của người nhìn thấy sự sanh và diệt là tốt hơn.

[114] 15. Ai sống một trăm năm,
Không thấy câu bất tử,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được câu bất tử.
15. Yo ca vassasataṁ jīve – apassaṁ amataṁ padaṁ
Ekāhaṁ jīvitāṁ seyyo – passato amataṁ padam.
15. Và người nào có thể sống một trăm năm, không nhìn thấy vị thế Bất Tử, mạng sống một ngày của người nhìn thấy vị thế Bất Tử là tốt hơn.

[115] 16. Ai sống một trăm năm,
Không thấy pháp tối thượng,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp tối thượng.
16. Yo ca vassasataṁ jīve – apassaṁ dhammamuttamaṁ
Ekāhaṁ jīvitaṁ seyyo – passato dhammamuttamaṁ.
16. Và người nào có thể sống một trăm năm, không nhìn thấy Giáo Pháp tối thượng, mạng sống một ngày của người nhìn thấy Giáo Pháp tối thượng là tốt hơn.

9. PHẨM ÁC - PĀPA VAGGA
[116] 1. Hãy gấp làm điều lành,
Ngăn tâm làm điều ác.
Ai chậm làm việc lành,
Ý ưa thích việc ác.
1. Abhittharetha kalyāne – pāpā cittaṁ nivāraye
Dandhaṁ hi karoto puññaṁ – pāpasmiṁ ramati mano.
1. Nên mau mắn trong việc tốt, nên ngăn chặn tâm khỏi điều ác, bởi vì khi người làm việc phước thiện một cách chậm chạp, tâm của người thích thú trong việc ác.

[117] 2. Nếu người làm điều ác,
Chớ tiếp tục làm thêm.
Chớ ước muốn điều ác,
Chứa ác, tất chịu khổ.
2. Pāpañ ce puriso kayirā – na taṁ kayirā punappunaṁ
Ṅa tamhi chandaṁ kayirātha – dukkho pāpassa uccayo.
2. Nếu người làm việc ác, không nên tiếp tục làm việc ấy nữa. Không nên tạo ra sự mong muốn về việc ấy, sự tích lũy việc ác là khổ đau.

[118] 3. Nếu người làm điều thiện,
Nên tiếp tục làm thêm.
Hãy ước muốn điều thiện,
Chứa thiện, được an lạc.
3. Puññaṁ ce puriso kayirā – kayirāth’etaṁ punappunaṁ
Tamhi chandaṁ kayirātha- sukho puññassa uccayo.
3. Nếu người làm việc phước thiện, nên tiếp tục làm việc ấy. Nên tạo ra sự mong muốn về việc ấy, sự tích lũy việc phước thiện là hạnh phúc.

[119] 4. Người ác thấy là hiền.
Khi ác chưa chín muồi,
Khi ác nghiệp chín muồi,
Người ác mới thấy ác.
4. Pāpo’ pi passati bhadraṁ – yāva pāpaṁ na paccati
Yadā ca paccati pāpaṁ – atha pāpo pāpāni passati.
4. Người làm ác cũng gặp được điều lành khi nào việc ác chưa được chín muồi. Và khi nào việc ác được chín muồi, khi ấy người làm ác gặp những điều xấu xa.

[120] 5. Người hiền thấy là ác,
Khi thiện chưa chín muồi.
Khi thiện được chín muồi,
Người hiền thấy là thiện.
5. Bhadro’ pi passati pāpaṁ – yāva bhadraṁ na paccati
yādā ca paccati bhadraṁ – atha bhadro bhadrāni passati.
5. Người làm lành cũng gặp điều xấu xa khi nào việc lành chưa được chín muồi. Và khi nào việc lành được chín muồi, khi ấy người làm lành gặp những điều tốt lành.

[121] 6. Chớ chê khinh điều ác,
Cho rằng “chưa đến mình “,
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người ngu chứa đầy ác
Do chất chứa dần dần.
6. Māvamaññetha 1 pāpassa – na maṁ taṁ āgamissati
Udabindunipātena – udakumbho’pi pūrāti
Pūrati bālo pāpassa – thokathokam’ pi ācinaṁ.
6. Chớ xem thường việc ác (nghĩ rằng): ‘Điều ấy sẽ không đến cho ta.’ Với việc nhỏ xuống từng giọt nước, bình nước cũng được tràn đầy, trong khi tích lũy (việc ác) dầu chỉ từng chút từng chút, kẻ ngu bị ngập tràn việc ác.

[122] 7. Chớ chê khinh điều thiện
Cho rằng “Chưa đến mình, ”
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người trí chứa đầy thiện,
Do chất chứa dần dần.
7. Māvamaññetha 1 puññassa – na mam taṁ āgamissati
Udabindunipātena – udakumbho’pi purāti
Purāti dhīro puññassa – thokathokam pi ācinaṁ.
7. Chớ xem thường việc phước (nghĩ rằng): ‘Điều ấy sẽ không đến cho ta.’ Với việc nhỏ xuống từng giọt nước, bình nước cũng được tràn đầy, trong khi tích lũy (việc phước) dầu chỉ từng chút từng chút, người sáng trí được ngập tràn việc phước.

[123] 8. Ít bạn đường, nhiều tiền,
Người buôn tránh đường hiểm.
Muốn sống, tránh thuốc độc,
Hãy tránh ác như vậy.
8. Vānijo’ va bhayaṁ maggaṁ – appasattho mahaddhano
Visaṁ jīvitukāmo’ va – pāpāni parivajjaye.
8. Nên lánh xa các việc ác, ví như người thương buôn có đoàn lữ hành ít ỏi mà có tài sản lớn lao nên lánh xa con đường nguy hiểm, ví như người có ý muốn sống nên lánh xa thuốc độc.

[124] 9. Bàn tay không thương tích,
Có thể cầm thuốc độc.
Không thương tích, tránh độc,
Không làm, không có ác.
9. Paṇnimhi ce vaṇo n’āssa – hareyya pāṇinā visaṁ
Nābbaṇam visam anveti – natthi pāpaṁ akubbato.
9. Có thể nắm lấy thuốc độc bằng bàn tay nếu ở bàn tay không có vết thương; thuốc độc không ngấm vào chỗ không có vết thương, không có điều ác cho người không làm (ác).

[125] 10. Hại người không ác tâm,
Người thanh tịnh, không uế,
Tội ác đến kẻ ngu,
Như ngược gió tung bụi.
10. Yo appaduṭṭhassa narassa dussati – suddhassa posassa aṅanganassa
Tam eva bālaṁ pacceti pāpaṁ – sukhumo rajo paṭivātaṁ’ vakhitto.
10. Kẻ nào bôi nhọ người không bị ô nhiễm,
người trong sạch, không vết nhơ,
điều xấu xa quay về chính kẻ ngu ấy,
ví như bụi bặm li ti được tung ra ngược chiều gió.

[126] 11. Một số sinh bào thai,
Kẻ ác sinh địa ngục,
Người thiện lên cõi trời,
Vô lậu chứng Niết Bàn.
11. Gabbham eke uppajjanti – nirayaṁ pāpakammino
Saggaṁ sugationo yanti – parinibbanti anāsavā.
11. Một số sanh vào bào thai, những kẻ có nghiệp ác sanh vào địa ngục, những người có hạnh lành đi đến cõi trời, các bậc vô lậu viên tịch Niết Bàn.

[127] 12. Không trên trời, giữa biển,
Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn được quả ác nghiệp.
12. Na antaḷikkhe na samuddhamajjhe – na pabbatānaṁ vivaraṁ pavissa
Na vijjati so jagatippadeso – yatthaṭṭhito muñceyya pāpakammā.
12. Không phải ở bầu trời, không phải ở giữa biển khơi,
không phải đã đi vào khe của những ngọn núi,
không tìm thấy khu vực ấy ở trên trái đất,
nơi mà người đứng ở đó có thể thoát khỏi nghiệp ác.

[128] 13. Không trên trời, giữa biển,
Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn khỏi tay thần chết.
13. Na antaḷikkhe na samuddamajjhe – na pabbatānaṁ vivaraṁ pavissa
Na vijjati so jagatippadeso -yatthaṭṭhitaṁ nappasahetha maccu.
13. Không phải ở bầu trời, không phải ở giữa biển khơi,
không phải đã đi vào khe của những ngọn núi,
không tìm thấy khu vực ấy ở trên trái đất,
nơi mà người đứng ở đó thì Tử Thần không thể khống chế.

10. PHẨM HÌNH PHẠT - DAṆḌA VAGGA
[129] 1. Mọi người sợ hình phạt,
Mọi người sợ tử vong.
Lấy mình làm ví dụ
Không giết, không bảo giết.
1. Sabbe tasanti daṇḍassa – sabbe bhāyanti maccuno
Attānaṁ upamaṁ katvā – na haneyya na ghātaye.
1. Tất cả khiếp sợ hành phạt, tất cả sợ hãi Tử Thần. Sau khi lấy bản thân làm ví dụ, chớ nên giết hại, chớ nên bảo (kẻ khác) giết hại.

[130] 2. Mọi người sợ hình phạt,
Mọi người thích sống còn;
Lấy mình làm ví dụ,
Không giết, không bảo giết.
2. Sabbe tasanti daṇḍassa – sabbesaṁ jīvitaṁ piyaṁ
Attānaṁ upamaṁ katvā – na haneyya na ghātaye.
2. Tất cả khiếp sợ hành phạt, tất cả xem mạng sống là yêu quý. Sau khi lấy bản thân làm ví dụ, chớ nên giết hại, chớ nên bảo (kẻ khác) giết hại.

[131] 3. Chúng sanh cầu an lạc,
Ai dùng trượng hại người,
Ðể tìm lạc cho mình,
Ðời sau không được lạc.
3. Sukhakāmāni bhūtāni – yo daṇḍena vihiṁsati
Attano sukham esāno –
pecca so na labhate sukhaṁ.
3. Kẻ nào hãm hại các chúng sanh có sự mong mỏi hạnh phúc bằng hành phạt trong khi tầm cầu hạnh phúc cho mình, kẻ ấy không đạt được hạnh phúc sau khi chết.

[132] 4. Chúng sanh cầu an lạc,
Không dùng trượng hại người,
Ðể tìm lạc cho mình,
Ðời sau được hưởng lạc.
4. Sukhakāmāni bhūtāni – yo daṇḍena na hiṁsati
Attano sukham esāno – pecca so labhate sukhaṁ.
4. Kẻ nào không hãm hại các chúng sanh có sự mong mỏi hạnh phúc bằng hành phạt trong khi tầm cầu hạnh phúc cho mình, kẻ ấy đạt được hạnh phúc sau khi chết.

[133] 5. Chớ nói lời ác độc,
Nói ác, bị nói lại,
Khổ thay lời phẩn nộ,
Ðao trượng phản chạm mình.
5. M’āvoca pharusaṁ kañci – vuttā paṭivadeyyu taṁ
Dukkhā hi sārambhakathā – paṭidaṇḍā phuseyyu taṁ.
5. Ngươi chớ nói điều thô lỗ đến bất cứ ai. Những người đã bị (ngươi) nói có thể nói lại ngươi. Những lời nói cộc cằn quả là tai hại, (bởi vì) các sự đánh trả lại có thể giáng xuống cho ngươi.

[134] 6. Nếu tự mình yên lặng,
Như chiếc chuông bị bể.
Ngươi đã chứng Niết Bàn
Ngươi không còn phẩn nộ.
6. Sace neresi attānaṁ – kaṁso upahato yathā
Esa patto’si nibbānaṁ – sarambho te na vijjati.
6. Nếu ngươi không dao động bản thân giống như cái chuông đã bị bể, chính ngươi đã đạt đến Niết Bàn, sự thù hằn không tìm thấy ở ngươi.

[135] 7. Với gậy người chăn bò,
Lùa bò ra bãi cỏ;
Cũng vậy, già và chết,
Lùa người đến mạng chung.
7. Yathā daṇḍena gopālo – gāvo pāceti gocaraṁ
Evaṁ jarā ca maccū ca – āyuṁ pāceti pāṇinaṁ.
7. Giống như người chăn bò dùng gậy gộc lùa bầy bò ra đồng cỏ, tương tự như thế sự già và sự chết xua đuổi tuổi thọ của các chúng sanh.

[136] 8. Người ngu làm điều ác,
Không ý thức việc làm.
Do tự nghiệp, người ngu
Bị nung nấu, như lửa.
8. Atha pāpāni kamm āni – karam bālo na bujjhati
Sehi kammehi dummedho – aggidaḍḍho’ va tappati.
8. Và trong khi làm các việc ác, kẻ ngu không được sáng suốt. Kẻ có trí tồi bị hối hận bởi các hành động của mình, ví như bị đốt thiêu bởi ngọn lửa.

[137] 9. Dùng trượng phạt không trượng,
Làm ác người không ác.
Trong mười loại khổ đau,
Chịu gấp một loại khổ
9. Yo daṇḍena adandesu -appaduṭṭhesu dussati
Dasannam aññataraṁ ṭhānaṁ khippam eva nigacchati.
9. Kẻ nào dùng gậy gộc gây hại đến các bậc không có gậy gộc, không bị ô nhiễm, ngay lập tức bị đọa vào một trong mười trường hợp:

[138] 10. Hoặc khổ thọ khốc liệt,
Thân thể bị thương vong,
Hoặc thọ bệnh kịch liệt,
Hay loạn ý tán tâm.
10. Vedanaṁ pharusaṁ jāniṁ -sarīrassa ca bhedanaṁ
Garukaṁ vā’ pi ābādhaṁ cittakkhepaṁ va pāpuṇe.
10. (Kẻ ấy) có thể gánh chịu cảm thọ khốc liệt, sự mất mát tài sản, và sự tổn thương của cơ thể, hoặc là bịnh hoạn trầm trọng, hoặc sự mất trí.

[139] 11. Hoặc tai họa từ vua,
Hay bị vu trọng tội;
Bà con phải ly tán,
Tài sản bị nát tan.
11. Rājato vā upassaggaṁ -abbhakkhānaṁ va dāruṇaṁ
Parikkhayaṁ va ñātīnaṁ -bhogānaṁ va pabhaṅguraṁ.
11. Hoặc là sự phiền hà từ nhà vua, hay sự cáo tội khắc nghiệt, hoặc là sự tổn thất về thân quyến, hay sự tiêu tán về các của cải.

[140] 12. Hoặc phòng ốc nhà cửa
Bị hỏa tai thiêu đốt.
Khi thân hoại mạng chung,
Ác tuệ sanh địa ngục.
12. Atha v’assa agārāni aggi ḍahati pāvako
Kāyassa bhedā duppañño -nirayaṁ so’ papajjati.
12. Hoặc là ngọn lửa phát khởi thiêu đốt các gian nhà của kẻ ấy. Do sự hoại rã của thân, kẻ thiếu trí tuệ ấy bị sanh vào địa ngục.

[141] 13. Không phải sống lõa thể
Bện tóc, tro trét mình,
Tuyệt thực, lăn trên đất,
Sống nhớp, siêng ngồi xổm,
Làm con người được sạch,
Nếu không trừ nghi hoặc.
13. Na naggacariyā na jaṭā na paṅkā – nānāsakā thaṇḍilasāyikā vā
Rajo ca jallaṁ ukkuṭikappadhānaṁ – sodhenti maccam avitiṇṇakaṅkhaṁ.
13. Không phải sự thực hành lõa thể, không phải các búi tóc, không phải (sự bôi trét) các bùn đất, không phải sự tuyệt thực, hoặc sự nằm trên mặt đất, không phải bụi bặm và cáu ghét, không phải sự ra sức ngồi chồm hổm làm trong sạch con người chưa vượt qua sự nghi hoặc.

[142] 14. Ai sống tự trang sức,
Nhưng an tịnh, nhiếp phục,
Sống kiên trì, phạm hạnh,
Không hại mọi sinh linh,
Vị ấy là phạm chí,
Hay sa môn, khất sĩ.
14. Alaṅkato ce’pi samaṁ careyya – santo danto niyato brahmacārī
Sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṁ – so brāhmaṇo so samaṇo sa bhikkhu.
14. Mặc dầu đã được trang sức, mà có thể thực hành sự trầm tĩnh,
được an tịnh, đã được rèn luyện, quả quyết, có Phạm hạnh,
đã buông bỏ sự hành hạ đối với tất cả chúng sanh,
vị ấy là Bà-la-môn, vị ấy là Sa-môn, vị ấy là tỳ khưu.

[143] 15. Thật khó tìm ở đời,
Người biết thẹn, tự chế,
Biết tránh né chỉ trích
Như ngựa hiền tránh roi.
15. Hirīnisedho puriso – koci lokasmim vijjati
15. Người có sự tự ngăn ngừa bằng pháp hổ thẹn (tội lỗi) khó tìm thấy ở thế gian, là người không khơi dậy lời chê trách, ví như con ngựa hiền không phải dùng đến cây roi.

[144] 16. Như ngựa hiền chạm roi,
Hãy nhiệt tâm, hăng hái,
Với tín, giới, tinh tấn,
Thiền định cùng trạch pháp.
Minh hạnh đủ, chánh niệm,
Ðoạn khổ này vô lượng.
16. Asso yathā bhadro kasāniviṭṭho – ātāpino saṁvegino bhavātha
Saddhāya sīlena ca viriyena ca – samādhinā dhammavinicchayena ca
Sampannavijjācaraṇā patissatā – pahassatha dukkham idaṁ anappakhaṁ.
16. Giống như con ngựa hiền được điều khiển bởi cây roi,
các ngươi hãy có sự nhiệt tâm, có sự năng nổ.
Với tín, với giới, và với tấn,
với định, và với sự thẩm định về pháp,
có minh và hạnh đầy đủ, có niệm,
các ngươi hãy dứt bỏ sự khổ đau không phải là nhỏ nhoi này.

[145] 17. Người trị thủy dẫn nước,
Kẻ làm tên nắn tên,
Người thợ mộc uốn ván,
Bậc tự điều, điều thân.
17. Udakaṁ hi nayanti nettikā -usukārā namayanti tejanaṁ
Dāruṁ namayamti tacchakā – attānaṁ damayanti subbatā.
17. Thật vậy, những người đào kênh dẫn nước, những thợ làm tên uốn nắn cây tên, những người thợ mộc tạo dáng thanh gỗ, những vị có sự hành trì tốt đẹp rèn luyện bản thân.

11. PHẨM GIÀ - JARĀ VAGGA
[146] 1. Cười gì, hân hoan gì,
Khi đời mãi bị thiêu?
Bị tối tăm bao trùm,
Sao không tìm ngọn đèn?
1. Ko nu hāso kimānando -niccaṁ pajjalite sati
Andhakārena onaddhā -padīpaṁ na gavessatha.
1. Nụ cười gì đây, tại sao có niềm vui, khi thường xuyên bị đốt cháy? Bị bao trùm bởi bóng tối, phải chăng các ngươi sẽ không tìm kiếm ngọn đèn?

[147] 2. Hãy xem bong bóng đẹp,
Chỗ chất chứa vết thương,
Bệnh hoạn nhiều suy tư,
Thật không gì trường cửu.
2. Passa cittakataṁ bimbaṁ -arukāyaṁ samussitaṁ
Āturaṁ bahusaṅkappaṁ – yassa natthi dhuvaṁ ṭhiti.
2. Hãy nhìn xem hình bóng đã được tô điểm, tập hợp những vết thương, đã được dựng đứng lên (với những mảnh xương), bệnh hoạn, có nhiều suy tư, đối với nó không có sự bền vững, ổn định.

[148] 3. Sắc này bị suy già,
Ổ tật bệnh, mỏng manh,
Nhóm bất tịnh, đỗ vỡ,
Chết chấm dứt mạng sống.
3. Parijiṇṇam idaṁ rūpaṁ -roganiḍḍhaṁ pabhaṅguraṁ
Bhijjati pūtisandeho -maranaṇtaṁ hi jīvitaṁ.
3. Thể xác này là hoàn toàn tàn tạ, ổ bệnh tật, mỏng manh. Xác thân hôi thối (sẽ) bị tan rã bởi vì mạng sống có sự chết là điểm cuối cùng.

[149] 4. Như trái bầu mù thu,
Bị vất bỏ quăng đi,
Nhóm xương trắng bồ câu,
Thấy chúng còn vui gì?
4. Yānimāni apatthāni – alāpūn’ eva sārade
Kāpotakāni aṭṭhīni – tāni disvāna kā rati.
4. Có sự thích thú gì sau khi nhìn thấy những mảnh xương có màu trắng xám này bị quăng bỏ tứ tán tựa như những trái bầu ở vào mùa thu?

[150] 5. Thành này làm bằng xương,
Quét tô bằng thịt máu,
Ở đây già và chết,
Mạn, lừa đảo chất chứa.
5. Aṭṭhīnaṁ nagaraṁ kataṁ -maṅsalohitalepanaṁ
Yattha jarā ca maccū ca – māno makkho ca ohito.
5. (Thân này) là thành trì được làm bằng những mảnh xương, có sự bôi trét bằng thịt và máu, là nơi mà sự già, sự chết, ngã mạn, và đố kỵ ẩn náu.

[151] 6. Xe vua đẹp cũng già.
Thân này rồi sẽ già,
Pháp bậc thiện, không già.
Như vậy bậc chí thiện
Nói lên cho bậc thiện.
6. Jīranti ve rājarathā sucittā – atho sarīram pi jaraṁ upeti
Sataṁ ca dhammo na jaraṁ upeti – santo have sabbhi pavedayanti.
6. Các cỗ xe của đức vua, khéo được trang điểm, đương nhiên (sẽ) trở thành tàn tạ, rồi thân xác cũng đi đến sự già nua, nhưng Giáo Pháp của các bậc Thánh không đi đến sự già nua. Đúng vậy, các bậc Thánh tuyên thuyết đến các người tốt lành.

[152] 7. Người ít nghe kém học,
Lớn già như trâu đực.
Thịt nó tuy lớn lên,
Nhưng tuệ không tăng trưởng.
7. Appassutāyaṁ puriso -balivaddo’va jīrati
Maṅsāni tassa vaḍḍhanti – paññā tassa na vaḍḍhati.
7. Người nam này, ít chịu học hỏi, trở thành già cỗi ví như con bò mộng, các bắp thịt của kẻ ấy tăng trưởng, trí tuệ của kẻ ấy không tăng trưởng.

[153] 8. Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay, phải tái sanh.
8. Anekajāti saṁsāraṁ – sandhāvissaṁ anibbisaṁ
Gahakārakaṁ gavesanto- dukkhā jāti punappunaṁ.
8. Ta đã trải qua luân hồi trong nhiều kiếp sống không ngừng nghỉ, trong khi tìm kiếm người thợ làm nhà; sự sanh tái diễn là khổ đau.

[154] 9. Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi!
Ngươi không làm nhà nữa.
Ðòn tay ngươi bị gẫy,
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong.
9. Gahakāraka diṭṭho’ si -puna gehaṁ na kāhasi
Sabbā te phāsukā bhaggā -gahakūṭaṁ visaṅkhitaṁ
Visaṅkhāragataṁ cittaṁ -taṇhānaṁ khayam ajjhagā
9. Hỡi người thợ làm nhà, ngươi đã bị nhìn thấy. Ngươi sẽ không xây dựng nhà nữa. Tất cả các rường cột của ngươi đã bị gãy đổ, mái nhà đã bị phá tan. Tâm (của Ta) đã đi đến sự không còn tạo tác, Ta đã chứng đạt sự diệt tận của các tham ái.

[155] 10. Lúc trẻ, không phạm hạnh,
Không tìm kiếm bạc tiền.
Như cò già bên ao,
Ủ rũ, không tôm cá.
10. Acaritvā brahmacariyaṁ -aladhā yobbane dhanaṁ
Jiṇṇakoñcā’ va jhāyanti -khīṇamacche’ va pallale.
10. Những người đã không thực hành Phạm hạnh, đã không đạt được tài sản lúc còn trẻ, ví như những con cò già bị tàn tạ ở hồ nước cạn, không còn cá.

[156] 11. Lúc trẻ không phạm hạnh,
Không tìm kiếm bạc tiền;
Như cây cung bị gẫy,
Thở than những ngày qua.
11. Acaritvā brahmacariyaṁ -aladdhā yobbane dhanaṁ
Senti cāpātikhīṇā’ va – purāṇāni anutthunaṁ.
11. Những người đã không thực hành Phạm hạnh, đã không thành tựu tài sản lúc còn trẻ, nằm dài thở than về các việc quá khứ, ví như những (mũi tên) hết đà bắn ra từ cây cung, rơi xuống đất.

12. PHẨM TỰ NGÃ - ATTA1 VAGGA
[157] 1. Nếu biết yêu tự ngã,
Phải khéo bảo vệ mình,
Người trí trong ba canh,
Phải luôn luôn tỉnh thức.
1. Attānaṁ ce piyaṁ jaññā -rakkheyya naṁ surakkhitaṁ
Tiṇṇam aññataraṁ yāmam paṭijaggeyya paṇḍito.
1. Nếu biết bản thân là đáng yêu thì nên bảo vệ nó một cách cẩn thận. Người sáng suốt nên cảnh tỉnh (bản thân) vào một trong ba thời[1].
[1] Chú giải giải thích là một trong ba giai đoạn của cuộc đời, chứ không phải một trong ba canh của đêm (DhA. iii, 138).

[158] 2. Trước hết tự đặt mình,
Vào những gì thích đáng.
Sau mới giáo hóa người,
Người trí khỏi bị nhiễm.
2. Attānaṁ eva paṭhamaṁ – patirūpe nivesaye
Ath’aññam anusāseyya – na kilisseyya paṇḍito.
2. Trước tiên nên huân tập chính bản thân ở việc đúng đắn, rồi mới nên chỉ dạy người khác, (như thế) người sáng suốt không thể bị ô nhiễm.

[159] 3. Hãy tự làm cho mình,
Như điều mình dạy người.
Khéo tự điều, điều người,
Khó thay, tự điều phục!
3. Attānaṁ ce tathā kayirā – yathaññamanusāsati
Sudanto vata dammetha – attā hi kira duddamo.
3. Nếu chỉ dạy người khác như thế nào thì nên thực hành đối với bản thân như vậy. Đúng vậy, người đã khéo được rèn luyện thì có thể rèn luyện (kẻ khác), bởi vì bản thân quả là khó rèn luyện.

[160] 4. Tự mình y chỉ mình,
Nào có y chỉ khác.
Nhờ khéo điều phục mình,
Ðược y chỉ khó được.
4. Attā hi attano nātho – ko hi nātho paro siyā
Attanā’ va sudantena – nāthaṁ labhati dullabhaṁ.
4. Chính ta là người bảo hộ cho ta, còn người nào khác nữa có thể là người bảo hộ (cho ta)? Khi chính ta đã khéo được rèn luyện, thì đạt được người bảo hộ là việc khó mà đạt được.

[161] 5. Ðiều ác tự mình làm,
Tự mình sanh, mình tạo.
Nghiền nát kẻ ngu si,
Như kim cương, ngọc báu.
5. Attanā’ va kataṁ pāpaṁ -attajaṁ attasambhavaṁ
Abhimanthati dummedhaṁ -vajiraṁ v’asmamayaṁ maṇiṁ.
5. Việc ác đã do chính ta làm, đã do ta gây ra, có nguồn sanh khởi từ nơi ta. Việc ác nghiền nát kẻ kém trí tuệ, ví như kim cương nghiền nát viên ngọc ma-ni làm bằng đá.

[162] 6. Phá giới quá trầm trọng,
Như dây leo bám cây
Gieo hại cho tự thân,
Như kẻ thù mong ước.
6. Yassa accantadussīlyaṁ māluvā sālam iv’ otataṁ
Karoti so tatha’ ttānaṁ -yathā naṁ icchatī diso.
6. Ví như dây leo māluva trùm lên cây sālā, người có giới tồi tệ quá mức tạo ra cho bản thân điều mà kẻ thù mong muốn gây ra cho người ấy.

[163] 7. Dễ làm các điều ác,
Dễ làm tự hại mình.
Còn việc lành, việc tốt,
Thật tối thượng khó làm.
7. Sukarāni asādhūni – attano ahitāni ca
Yaṁ ve hitañ ca sādhuñ ca – taṁ ve paramadukkaraṁ.
7. Những việc không tốt đẹp và không có lợi ích cho bản thân là những việc dễ làm. Đúng vậy, việc gì có lợi ích và tốt đẹp, việc ấy hiển nhiên là việc vô cùng khó làm.

[164] 8. Kẻ ngu si miệt thị,
Giáo pháp bậc La Hán,
Bậc Thánh, bậc chánh mạng.
Chính do ác kiến này,
Như quả loại cây lau
Mang quả tự hoại diệt.
8. Yo sāsanaṁ arahataṁ – ariyānaṁ dhammajīvinaṁ
Paṭikkosati dummedho – diṭṭhiṁ nissāya pāpikaṁ
Phalāni kaṭṭhakass’eva – attaghaññāya phallati.
8. Kẻ nào kém trí tuệ, nương tựa ác tà kiến, khinh miệt lời giảng dạy của các bậc A-la-hán, của các vị Thánh Nhân có đời sống đúng đắn, (kẻ ấy) gây nên hậu quả đưa đến sự tiêu hoại cho bản thân, ví như các trái của cây tre (khi trổ hoa kết trái thì hại chết cây tre).

[165] 9. Tự mình, làm điều ác,
Tự mình làm nhiễm ô,
Tự mình không làm ác,
Tự mình làm thanh tịnh.
Tịnh, không tịnh tự mình,
Không ai thanh tịnh ai!
9. Attanā’ va kataṁ pāpaṁ – attanā saṁkilissati
Attanā akataṁ pāpaṁ – attanā’ va visujjhati
Suddhi asuddhi paccattaṁ – n’āñño aññaṁ visodhaye.
9. Việc ác đã được làm bởi chính bản thân, trở thành ô nhiễm bởi bản thân. Việc ác đã không được làm bởi bản thân, trở thành trong sạch bởi chính bản thân. Trong sạch (hay) không trong sạch tùy thuộc vào bản thân, không ai có thể làm cho người khác trở thành trong sạch.

[166] 10. Dầu lợi người bao nhiêu,
Chớ quên phần tư lợi,
Nhờ thắng trí tư lợi.
Hãy chuyên tâm lợi mình.
10. Attadatthaṁ paratthena – bahunā’ pi na hāpaye
Attadatthaṁ bhiññāya – sadatthapasuto siyā.
10. Không nên buông bỏ lợi ích của bản thân vì lợi ích của kẻ khác cho dầu là lớn lao. Sau khi biết rõ lợi ích của bản thân, nên quan tâm đến lợi ích của mình.

13. PHẨM THẾ GIAN - LOKA VAGGA
[167] 1. Chớ theo pháp hạ liệt.
Chớ sống mặc, buông lung;
Chớ tin theo tà kiến,
Chớ tăng trưởng tục trần.
1. Hinām dhammaṁ na seveyya pamādena na saṁvase
Micchādiṭṭhiṁ na seveyya – na siyā lokavaddhano.
1. Không nên thân cận với pháp thấp kém (ngũ dục). Không nên sống với sự xao lãng. Không nên thân cận với tà kiến. Không nên bận rộn với thế gian.

[168] 2. Nỗ lực, chớ phóng dật!
Hãy sống theo chánh hạnh;
Người chánh hạnh hưởng lạc,
Cả đời này, đời sau
2. Uttiṭṭhe nappamajjeyya – dhammaṁ sucaritaṁ care
Dhammacārī sukhaṁ seti – asmiṁ loke paramhi ca.
2. Nên nỗ lực, không nên xao lãng. Nên thực hành pháp một cách tốt đẹp. Người có sự thực hành pháp sống[2] an lạc trong đời này và trong đời sau.
Không ghi theo nghĩa thông thường của seti là ‘nằm, ngủ.’ Chú Giải giải thích từ seti là viharati: ‘sống, sinh hoạt’ (DhA. iii, 165).

[169] 3. Hãy khéo sống chánh hạnh,
Chớ sống theo tà hạnh!
Người chánh hạnh hưởng lạc,
Cả đời này, đời sau.
3. Dhammaṁ care sucaritaṁ – na naṁ duccaritaṁ care
Dhammacārī sukhaṁ seti – asmiṁ loke paramhi ca.
3. Nên thực hành pháp một cách tốt đẹp, không nên thực hành việc ấy một cách sai trái. Người có sự thực hành pháp sống an lạc trong đời này và trong đời sau.

[170] 4. Hãy nhìn như bọt nước,
Hãy nhìn như cảnh huyễn!
Quán nhìn đời như vậy,
Thần chết không bắt gặp.
4. Yathā bubbulakaṁ passe – yathā passe marīcikaṁ
Evaṁ lokaṁ avekkhantaṁ maccurājā na passati.
4. Nên xem (thế gian) như bọt nước, nên xem (thế gian) như ảo ảnh, Thần Chết không nhìn thấy người đang quan sát thế gian như vậy.

[171] 5. Hãy đến nhìn đời này,
Như xe vua lộng lẫy,
Người ngu mới tham đắm,
Kẻ trí nào đắm say.
5. Etha passath’ imaṁ lokaṁ –
cittaṁ rājarathūpamaṁ
Yattha bālā visīdanti –
natthi saṅgo vijānataṁ.
5. Hãy đến, hãy xem thế gian này đã được tô điểm tương tự như cỗ xe của đức vua, những kẻ ngu chìm đắm ở nơi ấy, không có sự dính líu đối với những người đang nhận thức (như thế).

[172] 6. Ai sống trước buông lung,
Sau sống không phóng dật,
Chói sáng rực đời này.
Như trăng thoát mây che.
6. Yo ca pubbe pamajjitvā – pacchā so nappamajjati
So imaṁ lokaṁ pabhāseti – abbhā mutto’ va candimā.
6. Và người nào trước đây xao lãng, về sau người ấy không xao lãng, người ấy chiếu sáng thế gian này, ví như mặt trăng được ra khỏi đám mây.

[173] 7. Ai dùng các hạnh lành,
Làm xóa mờ nghiệp ác,
Chói sáng rực đời này,
Như trăng thoát mây che.
7. Yassa pāpaṁ kataṁ kammaṁ – kusalena pithīyati
So imaṁ lokaṁ pabhāseti –
abbhā mutto’ va candimā.
7. Nghiệp ác đã làm của người nào được đóng lại bởi việc thiện, người ấy chiếu sáng thế gian này, ví như mặt trăng được ra khỏi đám mây.

[174] 8. Ðời này thật mù quáng,
Ít kẻ thấy rõ ràng.
Như chim thoát khỏi lưới,
Rất ít đi thiên giới.
8. Andhabhūto ayaṁ loko – tanuk’ettha vipassati
Sakunto jālamutto‘va – appo saggāa gacchati.
8. Thế gian này là mù quáng, ở đây số ít nhìn thấy rõ. Ví như (số lượng) con chim được thoát khỏi tấm lưới, ít người đi đến cõi trời.

[175] 9. Như chim thiên nga bay,
Thần thông liệng giữa trời;
Chiến thắng ma, ma quân,
Kẻ trí thoát đời này.
9. Hamsādiccapathe yanti – ākāse yanti iddhiyā
Nīyanti dhīrā lokamhā – jetvā māraṁ savāhiniṁ.
9. Các con thiên nga di chuyển theo đường đi của mặt trời. Những người đi ở không gian nhờ vào thần thông. Các bậc sáng trí lìa khỏi thế gian sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với đám quân binh.

[176] 10. Ai vi phạm một pháp,
Ai nói lời vọng ngữ,
Ai bác bỏ đời sau,
Không ác nào không làm.
10. Ekaṁ dhammaṁ atītassa – musāvādissa jantuno
Vitiṇṇaparalokassa – natthi pāpaṁ akāriyaṁ.
10. Đối với người đã vượt qua một pháp (chân thật), có lời nói dối trá, đã không quan tâm đến đời sau, không có việc ác nào là sẽ không làm.

[177] 11. Keo kiết không sanh thiên,
Kẻ ngu ghét bố thí,
Người trí thích bố thí,
Ðời sau, được hưởng lạc.
11. Na ve kadariyā devalokaṁ vajanti – bālā have nappasaṁsanti dānaṁ
Dhīro ca dānaṁ anumodamāno – ten’ eva so hoti sukhī parattha.
11. Đương nhiên, những kẻ keo kiệt không đi đến Thiên giới.
Đúng vậy, những kẻ ngu không khen ngợi việc bố thí.
Và người sáng trí, trong khi tùy hỷ việc bố thí,
do chính việc ấy vị ấy có được sự an vui ở đời sau.

[178] 12. Hơn thống lãnh cõi đất,
Hơn được sanh cõi trời,
Hơn chủ trì vũ trụ,
Quả Dự Lưu tối thắng.
12. Pathavyā ekarajjena – saggassa gamanena vā
Sabbalokādhipaccena – sotāpattiphalaṁ varaṁ.
12. Quả vị Nhập Lưu là cao quý so với vương quyền độc nhất ở trái đất, hoặc việc đi đến cõi trời, hoặc quyền chúa tể của toàn thể thế gian.

14.PHẨM ĐỨC PHẬT - BUDDHA VAGGA
[179] 1. Vị chiến thắng không bại,
Vị bước đi trên đời,
Không dấu tích chiến thắng,
Phật giới rộng mênh mông,
Ai dùng chân theo dõi
Bậc không để dấu tích?
1. Yassa jitaṁ n’āvajīyati jitamassa no yāti koci loke
Taṁ buddham anantagocaraṁ apadam kena padena nessatha.
1. Chiến thắng của vị nào không bị hạ thấp, chiến thắng của vị nào không một ai ở thế gian đạt đến, vị ấy là đức Phật, có hành xứ không bị giới hạn, không dấu vết, vậy ngươi sẽ dẫn dắt Ngài đi theo lối nào?

[180] 2. Ai giải tỏa lưới tham,
Ái phược hết dắt dẫn,
Phật giới rộng mênh mông,
Ai dùng chân theo dõi,
Bậc không để dấu tích?
2. Yassa jālinī visattikā – taṇhā natthi kuhiñci netave
Taṁ buddham anantagocaraṁ apadaṁ kena padena nessatha.
2. Tham ái, tấm lưới bẫy, sự vướng mắc của vị nào là không còn để dẫn dắt đi bất cứ đâu, vị ấy là đức Phật, có hành xứ không bị giới hạn, không dấu vết, vậy ngươi sẽ dẫn dắt Ngài đi theo lối nào?

[181] 3. Người trí chuyên thiền định,
Thích an tịnh viễn ly,
Chư thiên đều ái kính,
Bậc chánh giác, chánh niệm.
3. Ye jhānapasutā dhīrā – nekkhammūpasame ratā
Devā’ pi tesaṁ pihayanti – sambuddhānaṁ satīmataṁ.
3. Các vị nào chuyên chú tham thiền, sáng trí, thích thú ở sự an tịnh của việc xuất ly, chư Thiên cũng mong mỏi các vị ấy, các bậc Chánh Đẳng Giác, có niệm.

[182] 4. Khó thay, được làm người,
Khó thay, được sống còn,
Khó thay, nghe diệu pháp,
Khó thay, Phật ra đời!
4. Kiccho manussapaṭilābho –
kicchaṁ maccāna jīvitaṁ
Kicchaṁ saddhammasavaṇaṁ kiccho buddhānaṁ uppādo.
4. Sự đạt được thân người là khó, mạng sống của loài người là khó, (cơ hội) lắng nghe Chánh Pháp là khó, sự hiện khởi của chư Phật là khó.

[183] 5. Không làm mọi điều ác.
Thành tựu các hạnh lành,
Tâm ý giữ trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy.
5. Sabbapāpassa akaraṇaṁ kusalassa upasampadā
Sacittapariyodapanaṁ etaṁ buddhāna sāsanaṁ.
5. Không làm mọi điều ác, thành tựu việc thiện, thanh lọc tâm của mình, điều này là lời giáo huấn của chư Phật.

[184] 6. Chư Phật thường giảng dạy;
Nhẫn, khổ hạnh tối thượng,
Niết bàn, quả tối thượng;
Xuất gia không phá người;
Sa môn không hại người.
6. Khantī paramaṁ tapo titikkhā -nibbānaṁ paramaṁ vadanti buddhā
Na hi pabbajito parūpaghātī – samaṇo hoti paraṁ viheṭhayanto.
6. Nhẫn nại, chịu đựng là sự khổ hạnh tối thượng.
Chư Phật nói Niết Bàn là tối thượng.
Kẻ có sự hãm hại người khác đương nhiên không phải là bậc xuất gia,
kẻ ức hiếp người khác không phải là Sa-môn.

[185] 7. Không phỉ báng, phá hoại,
Hộ trì giới căn bản,
Ăn uống có tiết độ,
Sàng tọa chỗ nhàn tịnh
Chuyên chú tăng thượng tâm,
Chính lời chư Phật dạy.
7. Anūpavādo anūpaghāto – pātimokkhe ca saṁvaro
Mattaññutā ca bhattasmim – panthañ ca sayanāsanaṁ
Adhicitte ca āyogo – etaṁ buddhāna sāsanaṁ.
7. Không phỉ báng, không giết hại, sự thu thúc theo giới bổn Pātimokkha, sự biết đủ về vật thực, chỗ nằm ngồi thanh vắng, và sự gắn bó vào tăng thượng tâm, điều này là lời giáo huấn của chư Phật.

[186] 8. Dầu mưa bằng tiền vàng,
Các dục khó thỏa mãn.
Dục đắng nhiều ngọt ít,
Biết vậy là bậc trí.
8. Na kahapaṇavassena – titti kāmesu vijjati
Appassādā dukhā kāmā – iti viññāya paṇḍito.
8. Không phải do trận mưa tiền vàng mà sự thỏa mãn ở các dục được tìm thấy. Bậc sáng suốt đã biết rằng: ‘Các dục là khổ đau, có ít khoái lạc.’

[187] 9. Ðệ tử bậc chánh giác,
Không tìm cầu dục lạc,
Dầu là dục chư thiên,
Chỉ ưa thích ái diệt.
9. Loài người sợ hoảng hốt,
Tìm nhiều chỗ quy y,
Hoặc rừng rậm, núi non,
Hoặc vườn cây, đền tháp.
9. Vị ấy không tầm cầu sự thích thú ở các dục, dầu là của cõi Trời. Người đệ tử của đấng Chánh Đẳng Giác thích thú sự diệt trừ tham ái.

[188] 10. Loài người sợ hoảng hốt,
Tìm nhiều chỗ quy y,
Hoặc rừng rậm, núi non,
Hoặc vườn cây, đền tháp.
10. Bahuṁ ve saraṇaṁ yanti – pabbatāni vanāni ca
Ārāmarukkhacetyāni – manussā bhayatajjitā.
10. Bị đe dọa bởi nỗi sợ hãi, loài người đi đến nhiều nơi nương nhờ: những ngọn núi, những khu rừng, những ngôi chùa, những cội cây, và những bảo tháp.

[189] 11. Quy y ấy không ổn,
Không quy y tối thượng.
Quy y các chỗ ấy,
Không thoát mọi khổ đau.
11. N’etaṁ kho sāraṇaṁ khemaṁ – ṇ’etaṁ saraṇam uttamaṁ
N’etaṁ saraṇam āgamma – sabbadukkhā pamuccati.
11. Nơi nương nhờ ấy quả thật là không an toàn, nơi nương nhờ ấy là không tối thượng, Sau khi đi đến nơi nương nhờ ấy không được thoát khỏi mọi khổ đau.

[190] 12. Ai quy y Ðức Phật,
Chánh pháp và chư tăng,
Ai dùng chánh tri kiến,
Thấy được bốn Thánh đế.
12. Yo ca buddhañ ca dhammañ ca – saṅghañ ca saraṅam 4 gato
Cattāri ariyasaccāni – sammappaññāya passati.
12. Người nào đi đến nương nhờ đức Phật, Giáo Pháp, và Tăng Chúng, (người ấy) thấy được bốn Chân Lý cao thượng bằng trí tuệ chân chánh.

[191] 13. Thấy khổ và khổ tập,
Thấy sự khổ vượt qua,
Thấy đường Thánh tám ngành,
Ðưa đến khổ não tận.
13. Dukkhaṁ dukkhasamuppādaṁ – dukkhassa ca atikkamaṁ
Ariyañcaṭṭhaṅgikaṁ maggaṁ – dukkhūpasamagāminaṁ
13. (Người ấy) thấy được Khổ, sự sanh lên của Khổ, sự vượt qua khỏi Khổ, và Thánh Đạo tám chi phần đưa đến sự yên lặng của Khổ.

[192] 14. Thật quy y an ổn,
Thật quy y tối thượng,
Có quy y như vậy,
Mới thoát mọi khổ đau.
14. Etaṁ kho saraṇaṁ khemaṁ – etaṁ saranam uttamaṁ
Etaṁ saraṇaṁ āgamma – sabbadukkhā pamuccati.
14. Nơi nương nhờ ấy quả nhiên là an toàn, nơi nương nhờ ấy là tối thượng. Sau khi đi đến nơi nương nhờ ấy được thoát khỏi mọi khổ đau.

[193] 15. Khó gặp bậc thánh nhơn,
Không phải đâu cũng có.
Chỗ nào bậc trí sanh,
Gia đình tất an lạc.
15. Dullabho purisājañño – na so sabbattha jāyati
Yattha so jāyatī dhīro taṁ kulaṁ sukkham edh ati.
15. Người ưu việt là điều khó đạt được, vị ấy không được sanh ra ở mọi nơi. Nơi nào bậc sáng trí ấy sanh ra, gia tộc ấy thành đạt hạnh phúc.

[194] 16. Vui thay, Phật ra đời!
Vui thay, Pháp được giảng!
Vui thay, Tăng hòa hợp!
Hòa hợp tu, vui thay!
16. Sukho buddhānaṁ uppādo -sukhā saddhammadesanā
Sukhā saṅghassa sāmaggi -samaggānaṁ tapo sukho.
16. Sự hiện khởi của chư Phật là an vui. Việc thuyết giảng Chánh Pháp là an vui. Sự hợp nhất của Tăng Chúng là an vui. Sự khắc khổ của các vị hợp nhất là an vui.

[195] 17. Cúng dường bậc đáng cúng,
Chư Phật hoặc đệ tử,
Các bậc vượt hý luận,
Ðoạn diệt mọi sầu bi.
17. Pūjārahe pūjayato – buddhe yadi va sāvake
Papañcasamatikkhante -tiṇṇasokapariddave.
17. Đối với người đang cúng dường đến các đối tượng xứng đáng sự cúng dường như là chư Phật hoặc là các vị Thinh Văn đang vượt qua chướng ngại, hoặc đã vượt qua sầu muộn và than vãn, …

[196] 18. Cúng dường bậc như vậy,
Tịch tịnh, không sợ hãi,
Các công đức như vậy,
Không ai ước lường được.
18. Te tādise pūjayato – nibbute akutobhaye
Na sakkā puññaṁ saṅkhātuṁ im’ ettam’ iti kena ci.
18. … đối với người đang cúng dường đến các vị đã đạt Niết Bàn không còn hãi sợ như thế ấy, không thể nào ước định phước báu (của người ấy) là thế này (hay thế kia), bởi bất cứ ai (hoặc bằng bất cứ cách thức gì).

5. PHẨM HẠNH PHÚC - SUKHA VAGGA
[197] 1. Vui thay, chúng ta sống,
Không hận, giữa hận thù!
Giữa những người thù hận,
Ta sống, không hận thù!
1. Susukhaṁ vata jīvāma -verinesu averino
Verinesu manussesu – viharāma averino.
1. Thật vậy, chúng ta sống vô cùng an lạc, không thù hận giữa những người thù hận. Giữa những người thù hận, chúng ta hãy sống không thù hận.

[198] 2. Vui thay, chúng ta sống,
Không bệnh, giữa ốm đau!
Giữa những người bệnh hoạn,
Ta sống, không ốm đau.
2. Susukhaṁ vata jīvāma -āturesu anātura.
Āturesu manussesu – viharāma anāturā.
2. Thật vậy, chúng ta sống vô cùng an lạc, không bệnh[3] giữa những người bệnh. Giữa những người bệnh, chúng ta hãy sống không bệnh.
[3] Theo Chú Giải, bệnh (ātura) ở đây có nghĩa là ô nhiễm (kilesa), không bệnh nghĩa là không có ô nhiễm (DhA. iii, 257).

[199] 3. Vui thay, chúng ta sống,
Không rộn giữa rộn ràng;
Giữa những người rộn ràng,
Ta sống, không rộn ràng.
3. Susukhaṁ vata jīvāma -ussukesu anussukā
Ussukesu manussesu – viharāma anussukā.
3. Thật vậy, chúng ta sống vô cùng an lạc, không khao khát giữa những người khao khát. Giữa những người khao khát, chúng ta hãy sống không khao khát.

[200] 4. Vui thay chúng ta sống,
Không gì, gọi của ta.
Ta sẽ hưởng hỷ lạc,
Như chư thiên Quang Âm.
4. Susukhaṁ vata jīvāma – yesaṁ no natthi kiñcanaṁ
Pītibhakkhā bhavissāma – devā ābhassarā yathā.
4. Thật vậy, chúng ta sống vô cùng an lạc, không có vật gì thuộc về chúng ta. Chúng ta sẽ là những người có sự nuôi dưỡng bằng pháp hỷ, giống như chư Thiên ở cõi Quang Âm.

[201] 5. Chiến thắng sinh thù oán,
Thất bại chịu khổ đau,
Sống tịch tịnh an lạc.
Bỏ sau mọi thắng bại.
5. Jayaṁ veraṁ pasavati -dukkhaṁ seti parājito
Upasanto sukhaṁ seti – hitvā jayaparājayaṁ.
5. Chiến thắng làm nảy sanh thù hận. Kẻ bị chiến bại ngủ một cách khổ sở. Người an tịnh, ngủ một cách an lạc, sau khi đã từ bỏ thắng và bại.

[202] 6. Lửa nào sánh lửa tham?
Ác nào bằng sân hận?
Khổ nào sánh khổ uẩn,
Lạc nào bằng tịnh lạc.
6. Natthi rāgasamo aggi – natthi dosasamo kali
Natthi khandhasamā dukkhā – natthi santiparaṁ sukhaṁ.
6. Không có lửa nào sánh bằng tham, không có tội nào sánh bằng sân, không có khổ nào sánh bằng các uẩn, không có lạc nào vượt trội Niết Bàn.

[203] 7. Ðói ăn, bệnh tối thượng,
Các hành, khổ tối thượng,
Hiểu như thực là vậy,
Niết Bàn, lạc tối thượng.
7. Jighachā paramā rogā – saṁkhārā paramā dukhā
Etaṁ ñatvā yathābhūtaṁ – nibbānaṁ paramaṁ sukkhaṁ.
7. Đói là bệnh tối thượng, các hành là khổ tối thượng. Sau khi biết được điều ấy đúng theo bản thể, Niết Bàn là an lạc tối thượng.

[204] 8. Không bệnh, lợi tối thượng,
Biết đủ, tiền tối thượng,
Thành tín đối với nhau,
Là bà con tối thượng.
Niết Bàn, lạc tối thượng.
8. Ārogyaparamā lābhā – santuṭṭhī paramaṁ dhannaṁ
Vissāsaparamā ñātī nibbānaṁ pramaṁ sukhaṁ.
8. Không bệnh là lợi ích tối thượng, tự biết đủ là tài sản tối thượng, sự tự tin là thân quyến tối thượng, Niết Bàn là an lạc tối thượng.

[205] 9. Ðã nếm vị độc cư,
Ðược hưởng vị nhàn tịnh,
Không sợ hải, không ác,
Nếm được vị pháp hỷ.
9. Pavivekarasaṁ pītvā – rasaṁ upasamassa ca
Niddaro hoti nippāpo – dhammapītirasaṁ pibaṁ.
9. Sau khi đã uống hương vị của sự ẩn cư và hương vị của sự an tịnh, người uống hương vị hoan hỷ của Giáo Pháp trở nên không còn buồn bực, không còn ác xấu.

[206] 10. Lành thay, thấy thánh nhân,
Sống chung thường hưởng lạc.
Không thấy những người ngu,
Thường thường được an lạc.
10. Sādhu dassanam ariyānaṁ – sannivāso sadā sukhā
Adassanena bālānaṁ – niccam eva sukhī siyā.
10. Việc nhìn thấy các bậc Thánh là tốt lành, việc sống chung (với các bậc Thánh) thì luôn luôn an lạc, do việc không gặp gỡ những kẻ ngu, có thể có được sự an lạc thường xuyên.

[207] 11. Sống chung với người ngu,
Lâu dài bị lo buồn.
Khổ thay gần người ngu,
Như thường sống kẻ thù.
Vui thay, gần người trí,
Như chung sống bà con.
11. Bālasaṅgatacārī hi -dīgham addhāna socati
Dukkho bālehi saṁvāso – amitten’ eva sabbadā.
Dhīro ca sukhasaṁvāso – ñātīnaṁ’ va samāgamo.
11. Người có sự sinh hoạt gần gũi với kẻ ngu sầu muộn thời gian lâu dài. Sự cộng trú với những kẻ ngu là khổ sở, ví như sống với kẻ thù vào mọi lúc. Còn sự sống chung với người sáng trí là an lạc, như là sự gặp gỡ với những người thân.

[208] 12. Bậc hiền sĩ, trí tuệ
Bậc nghe nhiều, trì giới,
Bậc tự chế, Thánh nhân;
Hãy gần gũi, thân cận
Thiện nhân, trí giả ấy,
Như trăng theo đường sao.
12. Tasmā hi:
Dhīrañ ca paññañ ca bahussutañ ca – dhorayhasīlaṁ vatavantam āriyaṁ
Taṁ tādisaṁ sappurisaṁ sumedhaṁ – bhajetha nakkhattapathaṁ’ va candimā.
12. Chính vì thế, các ngươi nên giao thiệp với người ấy, vị như thế ấy, bậc chân nhân, khôn ngoan, sáng trí, có trí tuệ, nghe nhiều, giới được kiên trì, đầy đủ phận sự, thánh thiện, ví như mặt trăng liên kết với hành trình của các ngôi sao.

16. PHẨM HỶ ÁI - PIYA VAGGA
[209] 1. Tự chuyên, không đáng chuyên
Không chuyên, việc đáng chuyên.
Bỏ đích, theo hỷ ái,
Ganh tị bậc tự chuyên.
1. Ayoge yuñjam attānaṁ – yogasmiñ ca ayojayaṁ
Atthaṁ hitvā piyaggāhī – pihet’ attānuyoginaṁ.
1. Trong khi gắn bó bản thân vào việc không đáng gắn bó và không gắn bó bản thân vào việc đáng gắn bó, kẻ có sự nắm bắt những điều yêu thích, sau khi từ bỏ mục đích, ganh tị với vị có sự gắn bó bản thân (vào việc tu tập).

[210] 2. Chớ gần gũi người yêu,
Trọn đời xa kẻ ghét.
Yêu không gặp là khổ,
Oán phải gặp cũng đau.
. Mā piyehi samāgañchi – appiyehi kudācanaṁ.
Piyānaṁ adassanaṁ dukkhaṁ appiyānañ ca dassanaṁ.
2. Chớ nên tiếp cận với những gì yêu thích và những gì không yêu thích vào bất cứ lúc nào. Không nhìn thấy những gì yêu thích và nhìn thấy những gì không yêu thích là khổ đau.

[211] 3. Do vậy chớ yêu ai,
Ái biệt ly là ác;
Những ai không yêu ghét,
Không thể có buộc ràng.
3. Tasmā piyaṁ na kayirātha – piyâpāyo hi pāpako
Ganthā tesaṁ na vijjanti – yesaṁ natthi piyâppiyaṁ.
3. Vì thế, chớ tạo ra đối tượng yêu thích, bởi vì sự xa lìa những gì yêu thích là điều xấu. Những vị nào không có đối tượng yêu thích và đối tượng không yêu thích, sự ràng buộc không hiện hữu đối với những vị ấy.

[212] 4. Do ái sinh sầu ưu,
Do ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi tham ái,
Không sầu, đâu sợ hãi?
4. Piyato jāyati soko – piyato jāyati bhayaṁ
Piyato vippamuttassa – natthi soko kuto bhayaṁ.
4. Do yêu thích sầu muộn được sanh ra, do yêu thích lo sợ được sanh ra. Đối với người đã thoát ra khỏi sự yêu thích, sầu muộn không có, lo sợ từ đâu có?

[213] 5. Ái luyến sinh sầu ưu,
Ái luyến sinh sợ hãi.
Ai giải thoát ái luyến
Không sầu, đâu sợ hãi?
5. Pemato jāyati soko – pemato jāyati bhāyaṁ
Pemato vippamuttassa – natthi soko kuto bhayaṁ.
5. Do mến thương sầu muộn được sanh ra, do mến thương lo sợ được sanh ra. Đối với người đã thoát ra khỏi sự mến thương, sầu muộn không có, lo sợ từ đâu có?

[214] 6. Hỷ ái sinh sầu ưu,
Hỷ ái sinh sợ hãi.
Ai giải thoát hỷ ái,
Không sầu, đâu sợ hãi?
6. Ratiyā jāyati soko – ratiyā jāyati bhayaṁ
Ratiyā vippamuttassa – natthi soko kuto bhayaṁ.
6. Do luyến ái sầu muộn được sanh ra, do luyến ái lo sợ được sanh ra. Đối với người đã thoát ra khỏi sự luyến ái, sầu muộn không có, lo sợ từ đâu có?

[215] 7. Dục ái sinh sầu ưu,
Dục ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi dục ái,
Không sầu, đâu sợ hãi?
7. Kāmato jāyati soko – kāmato jāyati bhayaṁ
Kāmato vippamuttassa – natthi soko kuto bhayaṁ.
7. Do ham muốn sầu muộn được sanh ra, do ham muốn lo sợ được sanh ra. Đối với người đã thoát ra khỏi sự ham muốn, sầu muộn không có, lo sợ từ đâu có?

[216] 8. Tham ái sinh sầu ưu,
Tham ái sinh sợ hãi.
Ai thoát khỏi tham ái,
Không sầu, đâu sợ hãi.
8. Taṇhāya jāyati soko – taṇhāya jāyati bhayaṁ
Taṇhāya vippamuttassa -natthi soko kuto bhayaṁ.
8. Do tham ái sầu muộn được sanh ra, do tham ái lo sợ được sanh ra. Đối với người đã thoát ra khỏi sự tham ái, sầu muộn không có, lo sợ từ đâu có?

[217] 9. Ðủ giới đức, chánh kiến;
Trú pháp, chứng chân lý,
Tự làm công việc mình,
Ðược quần chúng ái kính.
9. Sīladassanasampannaṁ – dhammaṭṭhaṁ saccavedinaṁ
Attano kammakubbānaṁ – taṁ jano kurute piyaṁ.
9. (Vị nào) được đầy đủ về giới hạnh và sự nhận thức, đã đứng vững ở Thánh Pháp, có sự hiểu biết về Chân Lý, đang thực hành công việc của mình, dân chúng thể hiện sự yêu mến đối với vị ấy.

[218] 10. Ước vọng pháp ly ngôn
Ý cảm xúc thượng quả
Tâm thoát ly ác dục,
Xứng gọi bậc Thượng Lưu.
10. Chandajāto anakkhāte – manasā ca phuṭo siyā
Kāmesu ca appaṭibaddhacitto – uddhaṁsoto’ti vuccati.
10. Vị đã khởi lên mong muốn về pháp không định nghĩa được (Niết Bàn), nếu được thấm nhuần bởi ý, và có tâm không bị trói buộc ở các dục, được gọi là ‘Bậc Thượng Lưu.’

[219] 11. Khách lâu ngày ly hương,
An toàn từ xa về,
Bà con cùng thân hữu,
Hân hoan đón chào mừng.
11. Cirappavāsiṁ purisaṁ – dūrato sotthim āgataṁ ñatimittā suhajjā ca – abhinandanti sāgataṁ.
11. Khi người có cuộc sống ly hương lâu dài đã trở về an toàn từ phương xa, thân quyến bạn bè và người quen vui mừng người đã trở về.

[220] 12. Cũng vậy các phước nghiệp,
Ðón chào người làm lành,
Ðời này đến đời kia.
Như thân nhân, đón chào.
12. Tath’ eva katapuññam pi – asmā lokā paraṁ gataṁ
Puññāni paṭigaṇhanti – piyaṁ ñātiṁ’ va āgataṁ.
12. Tương tợ y như thế, khi người đã làm việc phước thiện từ thế giới này đi đến thế giới khác, các phước báu tiếp đón (người ấy), ví như các quyến thuộc tiếp đón người thân yêu đã trở về.

17. PHẨM PHẪN NỘ - KODHA VAGGA
[221] 1. Bỏ phẫn nộ, ly mạn,
Vượt qua mọi kiết sử,
Không chấp trước danh sắc.
Khổ không theo vô sản.
1. Kodhaṁ jahe vippajaheyya mānaṁ – saññojanaṁ sabbam atikkameyya
Taṁ nāmārūpasmiṁ asajjamānaṁ – akiñcanaṁ nānupatanti dukkhā.
1. Nên từ bỏ sự giận dữ, nên dứt bỏ hẳn sự ngã mạn,
nên vượt qua tất cả ràng buộc.
Trong khi vị ấy không bám víu vào danh và sắc,
các khổ đau không xảy đến cho vị không có vật gì.

[222] 2. Ai chận được phẫn nộ,
Như dừng xe đang lăn,
Ta gọi người đánh xe,
Kẻ khác, cầm cương hờ.
2. Yo ve uppatitaṁ kodhaṁ – rathaṁ bhantaṁ’va dhāraye
Tam ahaṁ sārathiṁ brūmi rasmiggāho itaro jano.
2. Quả vậy, người nào có thể kiềm chế sự giận dữ đã sanh lên, ví như cỗ xe bị chao đảo, Ta gọi người ấy là ‘xa phu,’ người khác là kẻ vịn dây cương.

[223] 3. Lấy không giận thắng giận,
Lấy thiện thắng không thiện,
Lấy thí thắng xan tham,
Lấy chơn thắng hư ngụy.
3. Akkodhena jine kodhaṁ – asādhuṁ sādhunā jine
Jine kadariyaṁ dānena – saccena alikavādinaṁ.
3. Nên chinh phục người giận dữ bằng sự không giận dữ, nên chinh phục người xấu bằng điều tốt, nên chinh phục người bỏn xẻn bằng sự bố thí, (nên chinh phục) người có lời nói sai trái bằng sự chân thật.

[224] 4. Nói thật, không phẫn nộ,
Của ít, thí người xin,
Nhờ ba việc lành này,
Người đến gần thiên giới.
4. Saccaṁ bhaṇe na kujjheyya dajjā’ ppasmim pi yācito
Etehi tīhi ṭhānehi – gacche devāna santike.
4. Nên nói sự thật, không nên giận dữ. Khi được yêu cầu, nên bố thí dầu chỉ có chút ít. Với ba yếu tố này, có thể đi đến nơi hiện diện của chư Thiên.

[225] 5. Bậc hiền không hại ai,
Thân thường được chế ngự,
Ðạt được cảnh bất tử,
Ðến đây, không ưu sầu.
5. Ahiṁsakā ye munayo – niccaṁ kāyena saṁvutā
Te yanti accutaṁ ṭhānaṁ – yattha gantvā na socare.
5. Các bậc hiền trí nào là những người không hãm hại, thường xuyên thu thúc về thân, các vị ấy đi đến vị thế Bất Tử, là nơi không sầu muộn sau khi đi đến

[226] 6. Những người thường giác tỉnh,
Ngày đêm siêng tu học,
Chuyên tâm hướng Niết Bàn,
Mọi lậu hoặc được tiêu.
6. Sadā jāgaramānānaṁ – ahorattānusikkhinaṁ
Nibbānaṁ adhimuttānaṁ – atthaṁ gacchanti āsavā.
6. Đối với những người luôn luôn tỉnh giác, có sự tu tập ngày đêm, đã hướng tâm đến Niết Bàn, các lậu hoặc (của các vị ấy) đi đến tiêu diệt.

[227] 7. A-tu-la, nên biết,
Xưa vậy, nay cũng vậy,
Ngồi im, bị người chê,
Nói nhiều bị người chê.
Nói vừa phải, bị chê.
Làm người không bị chê,
Thật khó tìm ở đời.
7. Porāṇam etaṁ atula – n’etaṁ ajjatanām iva
Nindanti tuṅhim āsīnaṁ – nindanti bahubhāṇinaṁ
Mitabhāṇinam pi nindanti – natthi loke anindito.
7. Này A-tu-la, chuyện này là cổ xưa, chuyện này không chỉ là ngày nay, họ chê trách người ngồi im lặng, họ chê trách người nói nhiều, và họ cũng chê trách người nói vừa phải; ở trên đời không có người không bị chê trách.

[228] 8. Xưa, vị lai, và nay,
Ðâu có sự kiện này,
Người hoàn toàn bị chê,
Người trọn vẹn được khen.
8. Na cāhu na ca bhavissati – na c’etyarahi vijjati
Ekantaṁ nindito poso – ekantaṁ vā pasaṁsito.
8. Đã không có (ở quá khứ), sẽ không có (ở vị lai), và không tìm thấy ở hiện tại người chỉ thuần bị chê trách hoặc chỉ thuần được ngợi khen.

[229] 9. Sáng sáng, thẩm xét kỹ.
Bậc có trí tán thán.
Bậc trí không tỳ vết,
Ðầy đủ giới định tuệ.
9. Yañ ce viññū pasaṁsanti – anuvicca suve suve
Acchiddavuttiṁ medhāviṁ – paññāsīlasamāhitaṁ.
9. Sau khi xem xét ngày ngày, các bậc tri thức ngợi khen người có hành vi không lỗi lầm, thông minh, được thành tựu trí tuệ và giới hạnh.

[230] 10. Hạnh sáng như vàng ròng,
Ai dám chê vị ấy?
Chư thiên phải khen thưởng,
Phạm Thiên cũng tán dương
10. Nekkhaṁ jambonadass’ eva ko taṁ ninditum arahati
Devā’ pi taṁ pasaṁsanti – brahmuṇā’ pi pasaṁsito.
10. Tựa như đồng tiền bằng vàng ròng, ai xứng đáng để chê trách vị ấy? Chư Thiên cũng khen ngợi vị ấy. Vị ấy còn được khen ngợi bởi đấng Phạm Thiên.

[231] 11. Giữ thân đừng phẫn nộ,
Phòng thân khéo bảo vệ,
Từ bỏ thân làm ác,
Với thân làm hạnh lành.
11. Kāyappakopam rakkheyya – kāyena saṁvuto siyā
Kāyaduccaritaṁ hitvā – kāyena sucaritaṁ care.
11. Nên canh phòng sự giận dữ (bột phát) ở thân, nên là người đã được thu thúc về thân. Sau khi từ bỏ uế hạnh do thân, nên thực hành thiện hạnh do thân.

[232] 12. Giữ lời đừng phẫn nộ,
Phòng lời, khéo bảo vệ,
Từ bỏ lời thô ác,
Với lời, nói điều lành.
12. Vacīpakopaṁ rakkheyya – vācāya saṁvuto siyā
Vacīduccaritaṁ hitvā – vācāya sucaritaṁ care.
12. Nên canh phòng sự giận dữ của khẩu, nên là người đã được thu thúc về khẩu. Sau khi từ bỏ uế hạnh do khẩu, nên thực hành thiện hạnh do khẩu.

[233] 13. Giữ ý đừng phẫn nộ,
Phòng ý, khéo bảo vệ,
Từ bỏ ý nghĩ ác,
Với ý, nghĩ hạnh lành.
13. Manopakopaṁ rakkheyya – manasā saṁvuto siyā
Manoduccaritaṁ hitvā – manasā sucaritaṁ care.
13. Nên canh phòng sự giận dữ của ý, nên là người đã được thu thúc về ý. Sau khi từ bỏ uế hạnh do ý, nên thực hành thiện hạnh do ý.

[234] 14. Bậc trí bảo vệ thân,
Bảo vệ luôn lời nói
Bảo vệ cả tâm tư,
Ba nghiệp khéo bảo vệ.
14. Kāyena saṁvutā dhīrā – atho vācāya saṁvutā
Manasā saṁvutā dhīrā – te ve suparisaṁvutā.
14. Các bậc sáng trí đã được thu thúc về thân, rồi đã được thu thúc về khẩu. Các bậc sáng trí đã được thu thúc về ý. Đúng vậy, các vị ấy đã khéo thu thúc toàn diện.

18. PHẨM CẤU UẾ - PANDITA VAGGA
[235] 1. Ngươi nay giống lá héo,
Diêm sứ đang chờ ngươi,
Ngươi đứng trước cửa chết,
Ðường trường thiếu tư lương.
1. Paṇḍupalāso’ va’ dāni’si – yamapurisā’ pi ca tam upaṭṭhitā
Uyyogamukhe ca titthasi – pātheyyam pi ca te na vijjati.
1. Ngươi giờ đây ví như là chiếc lá úa vàng, và sứ giả của Thần Chết cũng đã đứng gần ngươi. Ngươi (đang) đứng ở ngưỡng cửa của sự tiêu vong, và lương thực đi đường của ngươi cũng không có.

[236] 2. Hãy tự làm hòn đảo,
Tinh cần gấp, sáng suốt.
Trừ cấu uế, thanh tịnh,
Ðến Thánh địa chư Thiên.
2. So karohi dīpam attano khippaṁ vāyama paṇḍito bhava
Niddhantamalo anaṅgaṇo dibbamṁariyabhūmim ehisi.
2. Ngươi đây hãy tạo lập hòn đảo cho bản thân, hãy mau mau nỗ lực, hãy trở nên sáng suốt. Với vết nhơ đã được giũ bỏ, không còn nhơ nhớp, ngươi sẽ đi đến địa phận thuộc cõi trời của các bậc Thánh nhân.

[237] 3. Ðời ngươi nay sắp tàn,
Tiến gần đến Diêm Vương.
Giữa đường không nơi nghỉ,
Ðường trường thiếu tư lương.
3. Upanītavayo va’ dāni’ si – sampayāto’ si yamassa santike
Vāso’ pi ca te natthi antarā – pātheyyam pi ca te na vijjati.
3. Và giờ đây người có sự diệt vong đã đến gần, ngươi đã tự đi đến gần Thần Chết. Không có chỗ trú ngụ cho ngươi ở khoảng giữa, và lương thực đi đường của ngươi cũng không có.

[238] 4. Hãy tự làm hòn đảo,
Tinh cần gấp sáng suốt.
Trừ cấu uế, thanh tịnh,
Chẳng trở lại sanh già.
4. So karohi dīpam attano – khippam vāyama paṇḍito bhava
Niddhantamalo anaṅgaṇo na puna jātijaraṁ epehisi.
4. Ngươi đây hãy tạo lập hòn đảo cho bản thân, hãy mau mau nỗ lực, hãy trở nên sáng suốt. Với vết nhơ đã được giũ bỏ, không còn nhơ nhuốc, ngươi sẽ không đi đến sự sanh và sự già lại nữa.

[239] 5. Bậc trí theo tuần tự.
Từng sát na trừ dần.
Như thợ vàng lọc bụi
Trừ cấu uế nơi mình.
5. Anupubbena medhāvī – thokathokaṁ khaṇe khaṇe
Kammāro rajatass’ eva – niddhame malam attano.
5. Ví như thợ rèn giũ bỏ bụi dơ của bạc, bậc thông minh nên tuần tự giũ bỏ vết nhơ của bản thân từng chút từng chút theo từng giây từng phút.

[240] 6. Bậc trí theo tuần tự.
Từng sát na trừ dần.
Như thợ vàng lọc bụi
Trừ cấu uế nơi mình.
6. Ayasā va malaṁ samuṭṭhitaṁ taduṭṭhāya tam’ eva khādati
Evaṁ atidhonacārinaṁ – sakakammāni nayanti duggatiṁ.
6. Ví như chất rỉ sét đã được sanh lên từ mảnh sắt, sau khi sanh lên từ mảnh sắt nó ăn mòn chính mảnh sắt ấy, tương tự như thế các việc làm của bản thân dẫn dắt kẻ có sự thọ dụng bốn món vật dụng thiếu sự quán xét[4] đi đến cảnh giới khổ đau.
[4] atidhonacārinaṃ: ‘kẻ có sự thọ dụng bốn món vật dụng thiếu sự quán xét’ ý nghĩa này được ghi theo lời giải thích của Chú Giải (DhA. iii, 344).

[241] 7. Không tụng làm nhớp kinh,
Không đứng dậy, bẩn nhà,
Biếng nhác làm nhơ sắc,
Phóng dật uế người canh.
7. Asajjhāyamalā mantā – anuṭṭhānamalā gharā
Malaṁ vaṇṇassa kosajjaṁ pamādo rakkhato malaṁ.
7. Các chú thuật có sự không tụng đọc là vết nhơ. Các ngôi nhà có sự không cư ngụ là vết nhơ. Biếng nhác là vết nhơ của sắc đẹp. Xao lãng là vết nhơ của người đang canh gác.

[242] 8. Tà hạnh nhơ đàn bà,
Xan tham nhớp kẻ thí,
Ác pháp là vết nhơ,
Ðời này và đời sau.
8. Mal’ itthiyā duccaritaṁ – maccheraṁ dadato malaṁ
Malā ve pāpakā dhammā – asmiṁ loke paramhi ca.
8. Tà hạnh là vết nhơ của người nữ. Bỏn xẻn là vết nhơ của người đang bố thí. Thật vậy các vết nhơ là các pháp ác xấu ở đời này và đời sau.

[243] 9. Trong hàng cấu uế ấy,
Vô minh, nhơ tối thượng,
Ðoạn nhơ ấy, tỷ kheo,
Thành bậc không uế nhiễm.
9. Tato malā malataraṁ – avijjā paramaṁ malaṁ
Etaṁ malaṁ pahatvāna – nimmalā hotha bhikkhavo.
9. Vô minh là vết nhơ tối thượng, nhơ nhuốc hơn các vết nhơ kia. Này các tỳ khưu, hãy dứt bỏ vết nhơ ấy, hãy trở thành người không có vết nhơ.

[244] 10. Dễ thay, sống không hổ
Sống lỗ mãng như quạ,
Sống công kích huênh hoang,
Sống liều lĩnh, nhiễm ô.
10. Sujīvaṁ ahirīkena – kākasūrena dhaṁsinā
Pakkhandinā pagabbhena samkiliṭṭhena jīvitaṁ.
10. Sự sinh sống bởi kẻ không biết hổ thẹn, trơ tráo như loài quạ, nói xấu sau lưng, khoác lác, xấc xược, nhơ nhuốc là cách sống dễ dàng.

[245] 11. Khó thay, sống xấu hổ,
Thường thường cầu thanh tịnh.
Sống vô tư, khiêm tốn,
Trong sạch và sáng suốt.
11. Hirīmatā ca dujjīvaṁ – niccaṁ sucigavesinā
Alīnen’ appagabbhena – suddhājīvena passata.
11. Và (sự sinh sống) bởi người có sự hổ thẹn, thường xuyên tầm cầu sự trong sạch, không cố chấp, không xấc xược, có sự nuôi mạng trong sạch, hiểu biết là cách sống khó khăn.

[246] 12. Ai ở đời sát sinh,
Nói láo không chân thật,
Ở đời lấy không cho,
Qua lại với vợ người.
12. Yo pāṇaṁ atipāteti – musāvādañ ca bhāsati
Loke adinnaṁ ādiyati – paradārañ ca gacchati.
12. Kẻ nào giết hại sanh mạng, và nói lời dối trá, lấy vật không được cho ở thế gian, và đi đến với vợ của người khác, …

[247] 13. Uống rượu men, rượu nấu,
Người sống đam mê vậy,
Chính ngay tại đời này,
Tự đào bới gốc mình.
13. Surāmerayapānañ ca – yo naro anuyuñjati
Idh’ evam eso lokasmiṁ -mulāṁ khaṇati attano.
13. … và người nam nào đam mê việc uống rượu và chất lên men, kẻ ấy đào bới gốc rễ của chính mình ở thế gian, ngay tại nơi này.

[248] 14. Vậy người, hãy nên biết,
Không chế ngự là ác.
Chớ để tham phi pháp,
Làm người đau khổ dài.
14. Evaṁ bho purisa jānāhi – pāpadhammā asaññatā
Mātaṁ lobho adhammo ca – ciraṁ dukkhāya randhayuṁ.
14. Này nam nhân, như vậy ngươi hãy biết rằng các ác pháp là không kiềm chế được, chớ để tham lam và phi pháp đẩy đưa ngươi đến sự khổ đau lâu dài.

[249] 15. Do tín tâm, hỷ tâm
Loài người mới bố thí.
Ở đây ai bất mãn
Người khác được ăn uống,
Người ấy ngày hoặc đêm,
Không đạt được tâm định?
15. Dadāti ve yathāsaddhaṁ – yathāpasādanaṁ jano
Tattha yo manku bhavati – paresaṁ pānabhojane
Na so divā vā rattiṁ vā – samādhiṁ adhigacchati.
15. Quả vậy, người ta bố thí tùy theo đức tin, tùy theo sự tín thành, tại đó kẻ nào bất mãn về thức ăn nước uống của những người khác (bố thí), kẻ ấy không chứng được định vào ban ngày hoặc ban đêm.

[250] 16. Ai cắt được, phá được,
Tận gốc nhổ tâm ấy.
Người ấy ngày hoặc đêm,
Ðạt được tâm thiền định.
16. Yassa c’ etam samucchinnaṁ mūlaghaccaṁ samūhataṁ
Sa ve divā vā rattiṁ vā – samādhiṁ adhigacchati.
16. Tuy nhiên, đối với vị nào có điều này đã được cắt đứt, gốc rễ đã được tiêu diệt, đã được bứng lên, vị ấy quả nhiên chứng được định vào ban ngày hoặc ban đêm.

[251] 17. Lửa nào bằng lửa tham!
Chấp nào bằng sân hận!
Lưới nào bằng lưới si!
Sông nào bằng sông ái!
17. Natthi rāgasamo aggi – natthi dosasamo gaho
Natthi mohasamaṁ jālaṁ natthi taṇhāsamā nadi.
17. Không có lửa nào sánh bằng tham, không có sự kìm kẹp nào sánh bằng sân, không có màng lưới nào sánh bằng si, không có dòng sông nào sánh bằng tham ái.

[252] 17. Dễ thay thấy lỗi người,
Lỗi mình thấy mới khó.
Lỗi người ta phanh tìm,
Như sàng trấu trong gạo,
Còn lỗi mình, che đậy,
Như kẻ gian dấu bài.
18. Sudassaṁ vajjaṁ aññesaṁ attano pana duddasaṁ
Paresaṁ hi so vajjānṁ – opuṇāti yathā bhusam
Attano pana chādeti – kaliṁ’ va kitavā saṭho.
18. Lỗi của những người khác dễ thấy, trái lại của mình khó thấy. Kẻ ấy sàng lọc các lỗi của chính những người khác như là sàng lọc hạt lúa (lẫn trong gạo), trái lại che giấu (lỗi) của mình như là kẻ bẫy chim che giấu thân hình.

[253] 19. Ai thấy lỗi của người,
Thường sanh lòng chỉ trích,
Người ấy lậu hoặc tăng,
Rất xa lậu hoặc diệt.
19. Paravajjānupassissa – niccaṁ ujjhānasaññino
Āsavā tassa vaḍḍhanti – ārā so āsavakkhayā.
19. Đối với kẻ tìm tòi lỗi của người khác, thường xuyên có ý tưởng phê phán, các lậu hoặc của kẻ ấy tăng trưởng, kẻ ấy cách xa sự diệt trừ các lậu hoặc.

[254] 20. Hư không, không dấu chân,
Ngoài đây, không sa môn,
Chúng sanh thích hý luận,
Như lai, hý luận trừ.
20. Ākāse padaṁ natthi – samaṇo natthi bāhire
Papañcābhiratā pajā – nippapañcā tathāgatā.
20. Không có vết chân (lưu lại) ở không trung, không có Sa-môn ở bên ngoài (Giáo Pháp), người đời thích thú các pháp chướng ngại, các đức Như Lai không còn các pháp chướng ngại.

[255] 21. Hư không, không dấu chân,
Ngoài đây, không sa môn.
Các hành không thường trú,
Chư Phật không giao động.
21. Ākāse padaṁ natthi – samaṇo natthi bāhire
Saṅkhārā sassatā natthi – natthi buddhānam iñjitaṁ.
21. Không có vết chân (lưu lại) ở không trung, không có Sa-môn ở bên ngoài (Giáo Pháp), các hành trường tồn là không có, chư Phật không có sự dao động.

19. PHẨM CÔNG MINH - DHAMMA ṬṬHA VAGGA
[256] 1. Ngươi đâu phải pháp trụ,
Xử sự quá chuyên chế,
Bậc trí cần phân biệt
Cả hai chánh và tà!
1. Na tena hoti dhammaṭṭho – yen’ atthaṁ sahasā naye
Yo ca atthaṁ anatthañ ca – ubho niccheyya paṇḍito.
1. Kẻ phân xử sự việc theo lối áp đặt, như thế không có công minh. Còn bậc sáng suốt là người có thể xác định cả hai: sự việc đúng và không đúng.

[257] 2. Không chuyên chế, đúng pháp,
Công bằng, dắt dẫn người,
Bậc trí sống đúng pháp,
Thật xứng danh pháp trụ.
2. Asāhasena dhammena – samena nayatī pare
Dhammassa gutto medhāvi dhammaṭṭho’ ti pavuccati.
2. Người phân xử những kẻ khác không theo lối áp đặt, đúng pháp, công bằng, được bảo vệ bởi pháp, thông minh, được gọi là ‘công minh.’

[258] 3. Không phải vì nói nhiều,
Mới xứng danh bậc trí.
An ổn, không oán sợ.
Thật đáng gọi bậc trí.
3. Na tena paṇḍito hoti – yāvatā bahu bhāsati
Khemī averī abhayo – paṇḍito’ ti pavuccati.
3. Dầu cho nói nhiều, không vì thế trở thành sáng suốt. Người có sự điềm tĩnh, không thù hận, không lo sợ, được gọi là ‘sáng suốt.’

[259] 4. Không phải vì nói nhiều,
Mới xứng danh trì pháp,
Những ai tuy nghe ít,
Nhưng thân hành đúng pháp,
Không phóng túng chánh pháp,
Mới xứng danh trì pháp.
4. Na tāvatā dhammadharo – yāvatā bahu bhāsati
Yo ca appam pi sutvāna – dhammaṁ kāyena passati
Sa ve dhammadharo hoti – yo dhammaṁ nappamajjati.
4. Dầu cho nói nhiều, không vì thế là người nắm giữ Giáo Pháp. Nhưng vị nào dầu chỉ nghe chút ít mà nhìn thấy Giáo Pháp bằng thân, thật vậy vị ấy là người nắm giữ Giáo Pháp, là người không xao lãng Giáo Pháp.

[260] 5. Không phải là trưởng lão,
Dầu cho có bạc đầu.
Người chỉ tuổi tác cao,
Ðược gọi là: “Lão ngu”.
5. Na tena thero hoti – yen’ assa phalitaṁ siro
Paripakko vayo tassa – moghajiṇṇo’ ti vuccati.
5. Mặc dầu đầu của vị ấy bạc tóc, không vì thế trở thành trưởng lão. Vị có tuổi thọ đã được chín muồi ấy được gọi là ‘già vô vị.’

[261] 6. Ai chân thật, đúng pháp,
Không hại, biết chế phục,
Bậc trí không cấu uế,
Mới xứng danh Trưởng Lão.
6. Yamhi saccañ ca dhammo ca ahiṁsā saññamo damo
Sa ve vantamalo dhīro – thero iti pavuccati.
6. Sự chân thật, sự đúng đắn, việc không hãm hại, việc chế ngự, việc rèn luyện có ở vị nào, vị ấy quả thật là bậc sáng trí, có ô nhiễm đã được tẩy trừ, được gọi là ‘trưởng lão.’

[262] 7. Không phải nói lưu loát,
Không phải sắc mặt đẹp,
Thành được người lương thiện,
Nếu ganh, tham, dối trá.
7. Na vākkaranamattena – vaṇṇapokkharatāya vā
Sādhurūpo naro hoti – issukī maccharī saṭho.
7. Không phải chỉ do việc nói năng hay trạng thái xinh đẹp của dáng vóc mà người trở thành mẫu mực (trong khi) là người có sự ganh tỵ, bỏn xẻn, xảo trá.

[263] 8. Ai cắt được, phá được
Tận gốc nhổ tâm ấy
Người trí ấy diệt sân,
Ðược gọi người hiền thiện.
8. Yassa c’etaṁ samucchinnaṁ mūlaghaccaṁ samūhataṁ
Sa vantadoso medhāvī – sādhurūpo’ ti vuccati.
8. Tuy nhiên, đối với vị nào điều ấy đã được cắt đứt, gốc rễ đã được tiêu diệt, đã được bứng lên, vị ấy, có tật xấu đã được tẩy trừ, thông minh, được gọi là ‘mẫu mực.’

[264] 9. Ðầu trọc, không sa môn
Nếu phóng túng, nói láo.
Ai còn đầy dục tham,
Sao được gọi sa môn?
9. Na muṇḍakena samaṇo – abbato alikaṁ bhaṇaṁ
Icchālobhasamāpanno – samaṇo kiṁ bhavissati.
9. Không phải do đầu cạo trọc mà trở thành Sa-môn nếu là kẻ không có sự hành trì, kẻ nói lời giả dối. Làm sao kẻ có sự ham muốn và tham lam sẽ trở thành Sa-môn được?

[265] 10. Ai lắng dịu hoàn toàn,
Các điều ác lớn nhỏ,
Vì lắng dịu ác pháp,
Ðược gọi là Sa môn.
10. Yo ca sameti pāpāni – aṇuṁ thūlāni sabbaso
Samitattā hi pāpānaṁ – samaṇo ‘ ti pavuccati.
10. Còn người nào lắng dịu các điều ác lớn nhỏ về mọi mặt, chính do trạng thái đã lắng dịu đối với các điều ác mà được gọi là ‘Sa-môn.’

[266] 11. Chỉ khất thực nhờ người,
Ðâu phải là tỷ kheo!
Phải theo pháp toàn diện,
Khất sĩ không, không đủ.
11. Na tena bhikkhu hoti – yāvatā bhikkhate pare
Vissaṁ dhammam samādāyā bhikkhu hoti na tāvatā.
11. Cho dầu đi khất thực nơi những kẻ khác, không vì thế trở thành tỳ khưu. Người chấp nhận pháp thế tục, do vậy mà không trở thành tỳ khưu.

[267] 12. Ai vượt qua thiện ác,
Chuyên sống đời Phạm Hạnh,
Sống thẩm sát ở đời,
Mới xứng danh tỷ kheo.
12. Yo’ dha puññañ ca pāpañ ca bāhetvā brahmacariyavā
Sankhāya loke carati – sa ve bhikkhū’ ti vuccati.
12. Ở đây, người nào đã lìa khỏi việc phước thiện và điều ác xấu, có thực hành Phạm hạnh, sống ở đời với sự hiểu biết, thật vậy người ấy được gọi là ‘tỳ khưu.’

[268] 13. Im lặng nhưng ngu si,
Ðâu được gọi ẩn sĩ?
Như người cầm cán cân,
Bậc trí chọn điều lành.
13. Na monena munī hoti – mūḷharūpo aviddasu
Yo ca tulaṁ’ va paggayha – varaṁ ādāya paṇḍito.
13. Kẻ có dáng vẻ khờ khạo, ngu dốt, dầu với trạng thái im lặng cũng không trở thành bậc hiền trí. Nhưng người nào, tựa như người nắm lấy cái cân, chọn lấy điều cao quý là người sáng suốt.

[269] 14. Từ bỏ các ác pháp,
Mới thật là ẩn sĩ.
Ai thật hiểu hai đời
Mới được gọi ẩn sĩ.
14. Pāpāni parivajjeti – sa munī tena so munī
Yo munāti ubho loke – munī tena pavuccati.
14. Người lánh xa hẳn các điều ác, người ấy là bậc hiền trí, do việc ấy người ấy trở thành bậc hiền trí. Người nào hiểu rõ cả hai thế giới (nội tâm và ngoại cảnh), do việc ấy được gọi là hiền trí.

[270] 15. Còn sát hại sinh linh,
Ðâu được gọi Hiền thánh.
Không hại mọi hữu tình,
Mới được gọi Hiền Thánh.
15. Na tena ariyo hoti – yena pāṇāni hiṁsati
Ahiṁsā sabbapānāṇaṁ – ariyo’ ti pavuccati.
15. Kẻ hãm hại các sinh mạng, vì thế không phải là thánh thiện. Do việc không hãm hại tất cả các sinh mạng, được gọi là ‘thánh thiện.’

[271] 16. Chẳng phải chỉ giới cấm
Cũng không phải học nhiều,
Chẳng phải chứng thiền định,
Sống thanh vắng một mình.
16. Na sīlabbatamattena – bāhusaccena vā puna
Atha vā samādhilābhena – vivicca sayanena vā.
16. Không phải chỉ do giới hạnh và việc hành trì, hay do sự học nhiều, hoặc do việc đạt được thiền định, hay do sự nằm ngủ đơn độc, …

[272] 17. Ta hưởng an ổn lạc,
Phàm phu chưa hưởng được.
Tỷ kheo, chớ tự tin
Khi lậu hoặc chưa diệt.
17.Phusāmi nekkhammasukhaṁ aputhujjanasevitaṁ.
Bhikkhu vissāsam āpādi – appatto āsavakkhayaṁ.

20. PHẨM ĐẠO LỘ - MAGGA VAGGA
[273] 1. Tám chánh, đường thù thắng,
Bốn câu, lý thù thắng.
Ly tham, pháp thù thắng,
Giữa các loài hai chân,
Pháp nhãn, người thù thắng.
1. Maggān’ aṭṭhangiko seṭṭho – saccānaṁ caturo padā
Virāgo seṭṭho dhammānaṁ – dipadānañ ca cakkhumā.
1. Trong số các đạo lộ, (đạo lộ) Tám Chi Phần là tối cao. Trong số các chân lý, bốn Lời Nói (là tối cao). Trong số các pháp, không luyến ái là tối cao. Và trong số các loài hai chân, bậc Hữu Nhãn (đức Như Lai là tối cao).

[274] 2. Ðường này, không đường khác
Ðưa đến kiến thanh tịnh.
Nếu ngươi theo đường này,
Ma quân sẽ mê loạn.
2. Eso’va maggo natth’ añño – dassanassa visuddhiyā
Etamhi tumhe paṭipajjatha – mārass’ etaṁ pamohanaṁ.
2. Chính cái này là đạo lộ, không có cái (đạo lộ) khác, đưa đến sự thanh tịnh của nhận thức. Vì thế, các ngươi hãy thực hành đạo lộ này, đạo lộ này là sự mê mờ đối với Ma Vương.

[275] 3. Nếu người theo đường này,
Ðau khổ được đoạn tận.
Ta dạy người con đường.
Với trí, gai chướng diệt.
3. Etamhi tumhe paṭipannā – dukkhassantaṁ karissatha
Akkhāto ve mayā maggo – aññāya sallasanthanaṁ.
3. Bởi vì khi đã thực hành đạo lộ này, các ngươi sẽ làm chấm dứt khổ đau. Đạo lộ quả thật đã được thuyết giảng bởi Ta, sau khi biết được cách nhổ bỏ mũi tên.

[276] 4. Người hãy nhiệt tình làm,
Như Lai chỉ thuyết dạy.
Người hành trì thiền định
Thoát trói buộc Ác ma.
4. Tumheti kiccaṁ ātappaṁ – akkhātāro tathāgatā
Paṭipannā pamokkhanti – Jhāyino mārabandhanā.
4. Các ngươi phải thể hiện sự nhiệt tâm, các đấng Như Lai (chỉ) là bậc thuyết giảng. Những người đã thực hành (đạo lộ), chứng thiền, sẽ thoát khỏi sự trói buộc của Ma Vương.

[277] 5. Tất cả hành vô thường ”
Với Tuệ, quán thấy vậy
Ðau khổ được nhàm chán;
Chính con đường thanh tịnh.
5. Sabbe saṅkhārā aniccā’ti – yadā paññāya passati
Atha nibbindati dukkhe – esa maggo visuddhiyā.
5. Khi nhận thức bằng trí tuệ rằng: ‘Tất cả các pháp hữu vi là vô thường’ thì nhàm chán khổ đau, đây là con đường đưa đến sự thanh tịnh.

[278] 6. Tất cả hành khổ đau
Với Tuệ quán thấy vậy,
Ðau khổ được nhàm chán;
Chính con đường thanh tịnh.
6. Sabbe saṅkhārā dukkhā ‘ ti – yadā paññāya passati
Atha nibbindati dukkhe – esa maggo visuddhiyā.
6. Khi nhận thức bằng trí tuệ rằng: ‘Tất cả các pháp hữu vi là khổ đau’ thì nhàm chán khổ đau, đây là con đường đưa đến sự thanh tịnh.

[279] 7. Tất cả pháp vô ngã,
Với Tuệ quán thấy vậy,
Ðau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh.
7. Sabbe dhammā anattā’ti – yadā paññāya passati
Atha nibbindati dukkhe – esa maggo visuddhiyā.
7. Khi nhận thức bằng trí tuệ rằng: ‘Tất cả các pháp là vô ngã’ thì nhàm chán khổ đau, đây là con đường đưa đến sự thanh tịnh.

[280] 8. Khi cần, không nỗ lực,
Tuy trẻ mạnh, nhưng lười
Chí nhu nhược, biếng nhác.
Với trí tuệ thụ động,
Sao tìm được chánh đạo?
8. Uṭṭhānakālamhi nuṭṭhāno – yuvā balī ālasiyaṁ upeto
Saṁsannasaṅkappamano kusīto – paññāya maggaṁ alaso na vindati.
8. Trong khi không nỗ lực vào thời điểm cần nỗ lực,
người trẻ tuổi, có sức mạnh, buông xuôi theo sự lười biếng,
với suy tư và tâm ý bị trì trệ, biếng nhác,
kẻ lười biếng không tìm thấy đạo lộ bằng trí tuệ.

[281] 9. Lời nói được thận trọng,
Tâm tư khéo hộ phòng,
Thân chớ làm điều ác,
Hãy giữ ba nghiệp tịnh,
Chứng đạo Thánh nhân dạy.
9. Vācānurakkhī manasā susaṁvuto kāyena ca akusalaṁ kayirā
Ete tayo kammapathe visodhaye ārādhaye maggaṁ isippaveditaṁ.
9. Người có sự gìn giữ lời nói, đã khéo thu thúc về tâm,
không nên làm việc bất thiện bằng thân,
nên làm trong sạch ba đường lối tạo nghiệp này,
nên thành đạt đạo lộ đã được tuyên thuyết bởi các bậc Ẩn Sĩ.

[282] 10. Tu Thiền, trí tuệ sanh,
Bỏ Thiền, trí tuệ diệt.
Biết con đường hai ngả
Ðưa đến hữu, phi hữu,
Hãy tự mình nỗ lực,
Khiến trí tuệ tăng trưởng.
10. Yogā ve jāyati bhūri – ayogā bhūrisaṅkhayo
Etaṁ dvedhā pathaṁ ñatvā bhavāya vibhavāya ca
Tath’ attānaṁ niveseyya – yathā bhūri pavaḍḍhati.
10. Đúng vậy, do sự tu luyện (về thiền) trí tuệ được phát sanh, do sự không tu luyện (về thiền) có sự tiêu hoại của trí tuệ. Sau khi biết được con đường hai lối này đưa đến hiện hữu và đưa đến không hiện hữu, nên rèn luyện bản thân sao cho trí tuệ tăng trưởng.

[283] 12. Ðốn rừng không đốn cây
Từ rừng, sinh sợ hãi;
Ðốn rừng và ái dục,
Tỷ kheo, hãy tịch tịnh.
11. Vanaṁ chindatha mā rukkhaṁ – vanato jāyati bhayaṁ
Chetvā vanañ ca vanathañ ca – nibbanā hotha bhikkhavo.
11. Các ngươi hãy đốn rừng (ô nhiễm), chớ đốn cây cối. Sợ hãi được sanh ra từ rừng (ô nhiễm). Này các tỳ khưu, sau khi đốn rừng và lùm bụi (ô nhiễm), hãy trở thành những người không còn rừng (ô nhiễm).

[284] 12. Khi nào chưa cắt tiệt,
Ái dục giữa gái trai,
Tâm ý vẫn buộc ràng,
Như bò con vú mẹ.
12. Yāvaṁ hi vanatho na chijjati – aṇumatto’ pi narassa nārisu
Paṭibaddhamano va tāva so – vaccho khīrapako’ va mātari.
12. Cho đến khi nào dục vọng của người nam đối với các người nữ, dầu là nhỏ nhoi, còn chưa được chặt đứt, cho đến khi ấy người nam ấy vẫn còn có tâm bị trói buộc, ví như con bê bú sữa ở bò mẹ.

[285] 13. Tự cắt dây ái dục,
Như tay bẻ sen thu,
Hãy tu đạo tịch tịnh,
Niết-Bàn, Thiện Thệ dạy.
13. Ucchinda sineham attano – kumudaṁ sāradikaṁ’ va pāṇinā
Santimaggam eva brūhaya – nibhānaṁ sugatena desitaṁ.
13. Hãy cắt đứt lòng yêu thương đối với bản thân, ví như dùng bàn tay (ngắt đi) hoa súng trắng của mùa thu. Hãy phát triển chính Đạo Lộ Thanh Tịnh, Niết Bàn, đã được thuyết giảng bởi đấng Thiện Thệ.

[286] 14. Mùa mưa ta ở đây
Ðông, hạ cũng ở đây,
Người ngu tâm tưởng vậy,
Không tự giác hiểm nguy.
14. Idha vassaṁ vasissāmi – idha hemantagimhisu
Iti bālo vicinteti – antarāyaṁ na bujjhati.
14. ‘Ta sẽ sống ở đây vào mùa mưa, ở đây vào mùa lạnh và mùa nóng,’ kẻ ngu suy nghĩ như thế, không giác ngộ được nỗi nguy hiểm.

[287] 15. Người tâm ý đắm say
Con cái và súc vật,
Tử thần bắt người ấy,
Như lụt trôi làng ngủ.
15. Taṁ puttapasusammattaṁ – byāsattamanasaṁ naraṁ
Suttaṁ gāmaṁ mahogho’ va maccu ādāya gacchati.
15. Thần chết nắm lấy và mang đi người nam ấy, kẻ đã bị say đắm đối với con cái và gia súc ấy, có tâm ý bị quyến luyến, ví như cơn lũ lớn chộp lấy và cuốn đi ngôi làng đã ngủ say.

[288] 16. Một khi tử thần đến,
Không có con che chở,
Không cha, không bà con,
Không thân thích che chở.
16. Na santi puttā taṇnāya – na pitā na’ pi bandhavā
Antakenādhipannassa – natthi ñātisu tāṇatā.
16. Không phải những người con đem lại sự bảo vệ, không phải người cha, cũng không phải các quyến thuộc. Đối với người đã bị chế ngự bởi cái chết, không có sự bảo vệ ở các thân quyến.

[289] 17. Biết rõ ý nghĩa này,
Bậc trí lo trì giới,
Mau lẹ làm thanh tịnh,
Con đường đến Niết-Bàn.
17. Etaṁ atthavasaṁ natvā – paṇḍito sīlasaṁvuto
Nibbānagamanaṁ maggaṁ khippam’ eva visodhaye.
17. Sau khi biết được tác động của việc này, bậc sáng suốt, đã thu thúc ở giới, nên làm trong sạch đạo lộ đưa đến Niết Bàn thật nhanh chóng.

21. PHẨM TẠP LỤC - PAKIṆṆAKA VAGGA
[290] 1. Nhờ từ bỏ lạc nhỏ,
Thấy được lạc lớn hơn,
Bậc trí bỏ lạc nhỏ,
Thấy được lạc lớn hơn.
1. Mattāsukhapariccāgā – passe ce vipulaṁ sukhaṁ
Caje mattā sukhaṁ dhīro – sampassaṁ vipulaṁ sukhaṁ.
1. Nếu do việc dứt bỏ hạnh phúc nhỏ nhoi có thể nhìn thấy hạnh phúc lớn lao, người sáng trí nên từ bỏ hạnh phúc nhỏ nhoi trong khi nhận thức được hạnh phúc lớn lao.

[291] 2. Gieo khổ đau cho người,
Mong cầu lạc cho mình,
Bị hận thù buộc ràng
Không sao thoát hận thù.
2. Paradukkhūpadānena – attano sukham icchati
Verasaṁsaggasamsaṭṭho – verā so na parimuccati.
2. Kẻ mong muốn hạnh phúc cho bản thân bằng việc gây ra khổ đau cho người khác, kẻ ấy, bị vướng mắc trong sự ràng buộc của hận thù, không thoát ra khỏi hận thù.

[292] 3. Việc đáng làm, không làm,
Không đáng làm, lại làm,
Người ngạo mạn, phóng dật,
Lậu hoặc ắt tăng trưởng.
3. Yaṁ hi kiccaṁ tadapaviddhaṁ akiccaṁ pana kayirati
Unnaḷānaṁ pamattānaṁ – tesaṁ vaddhanti āsavā.
3. Bởi vì việc cần làm thì bị bỏ qua, trái lại việc không cần làm lại được làm, các lậu hoặc của những kẻ cao ngạo, bị xao lãng ấy tăng trưởng.

[293] 4. Người siêng năng cần mẫn,
Thường thường quán thân niệm,
Không làm việc không đáng,
Gắng làm việc đáng làm,
Người tư niệm giác tỉnh,
Lậu hoặc được tiêu trừ.
4. Yesañ ca susamāraddhā – niccaṁ kāyagatā sati
Akiccaṁ te na sevanti – kicce sātaccakārino
Satānaṁ sampajānānaṁ – atthaṁ gacchanti āsavā.
4. Còn đối với những vị nào khéo nỗ lực, thường xuyên có niệm hướng đến thân, các vị ấy không phụng sự việc không cần làm, có sự thực hiện đều đặn các việc cần làm. Đối với những vị có niệm, có sự nhận biết rõ, các lậu hoặc đi đến tiêu diệt.

[294] 5. Sau khi giết mẹ cha,
Giết hai Vua Sát lỵ,
Giết vương quốc, quần thần
Vô ưu, phạm chí sống.
5. Mātaraṁ pitaraṁ hantvā – rājāno dve ca khattiye
Raṭṭhaṁ sānucaram hantvā – anīgho yāti brāhmaṇo.
5. Ðã giết mẹ 1 (ái dục), cha 2 (ngã mạn) và hai nhà vua hiếu chiến (thường kiến và đoạn kiến), và đã tiêu diệt một quốc gia (lục căn và lục trần) cùng với vị đại thần phụ trách quốc khố 3 (luyến ái), vị A-La-Hán ra đi, không sầu muộn.
(Phạm Kim Khánh)

[295] 6. Sau khi giết mẹ cha,
Hai vua Bà-la-môn,
Giết hổ tướng thứ năm
Vô ưu, phạm chí sống.
6. Mātaraṁ pitaraṁ hantvā – rājāno dve ca sotthiye
Veyyagghapañcamaṁ hantvā anīgho yāti brāhmaṇo.
6. Ðã giết mẹ, cha và hai ông vua của giai cấp Bà-La-Môn và tiêu diệt con đường nguy hiểm (chướng ngại), vị A-La-Hán ra đi, không sầu muộn.
(Phạm Kim Khánh)

[296] 7. Ðệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm,
Tưởng Phật Ðà thường niệm.
7. Suppabuddhaṁ pabujjhanti – sadā Gotamasāvakā
Yesaṁ divā ca ratto ca – niccaṁ buddhagatāsati.
7. Các đệ tử của đức Gotama luôn luôn tỉnh thức một cách tỉnh thức tốt đẹp, niệm của các vị này ngày và đêm thường xuyên hướng đến đức Phật.

[297] 8. Ðệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Tưởng Chánh Pháp thường niệm.
8. Suppabuddhaṁ abujjhanti – sadā Gotamasāvakā
Yesaṁ divā ca ratto ca – niccaṁ dhammagatā sati.
8. Các đệ tử của đức Gotama luôn luôn tỉnh thức một cách tỉnh thức tốt đẹp, niệm của các vị này ngày và đêm thường xuyên hướng đến Giáo Pháp.

[298] 9.Ðệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Tưởng Tăng Già thường niệm.
9. Suppabuddhaṁ pabujjhanti – sadā Gotamasāvakā
Yesaṁ divā ca ratto ca – niccam saṅghagatā sati.
9. Các đệ tử của đức Gotama luôn luôn tỉnh thức một cách tỉnh thức tốt đẹp, niệm của các vị này ngày và đêm thường xuyên hướng đến Tăng Chúng.

[299] 10. Ðệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Tưởng sắc thân thường niệm.
10. Suppabuddhaṁ pabujjhanti sadā Gotamasāvakā
Yesaṁ divā ca ratto ca – niccaṁ kāyagatā sati.
10. Các đệ tử của đức Gotama luôn luôn tỉnh thức một cách tỉnh thức tốt đẹp, niệm của các vị này ngày và đêm thường xuyên hướng đến thân.

[300] 11. Ðệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Ý vui niềm bất hại.
11. Suppabuddhaṁ pabujjhanti sadā Gotamasāvakā
Yesaṁ divā ca ratto ca – ahiṁsāya rato mano.
11. Các đệ tử của đức Gotama luôn luôn tỉnh thức một cách tỉnh thức tốt đẹp, tâm của các vị này ngày và đêm thường xuyên vui thích về việc không hãm hại.

[301] 12. Ðệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Ý vui tu thiền quán.
12. Suppabuddhaṁ pabujjhanti sadā Gotamasāvakā
Yesaṁ divā ca ratto ca – bhāvanāya rato mano.
12. Các đệ tử của đức Gotama luôn luôn tỉnh thức một cách tỉnh thức tốt đẹp, tâm của các vị này ngày và đêm thường xuyên vui thích về việc tu tập (tham thiền).

[302] 13. Vui hạnh xuất gia khó,
Tại gia sinh hoạt khó,
Sống bạn không đồng, khổ,
Trôi lăn luân hồi, khổ,
Vậy chớ sống luân hồi,
Chớ chạy theo đau khổ.
13. Duppabbajjaṁ durabhiramaṁ – durāvāsā gharā dukhā
Dukkho’ amānasaṁvāso – dukkhānupatitaddhagū
Tasmā na c’addhagū siyā – na ca dukkhānupatito siyā.
13. Việc xuất gia là khó, sự thích thú là khó, cuộc đời tại gia có việc cư ngụ khó khăn là khổ, sống chung với kẻ không tương đồng là khổ, kẻ lữ hành (ở luân hồi) bị rơi vào khổ đau; do đó không nên là kẻ lữ hành (ở luân hồi), không nên bị rơi vào khổ đau.

[303] 14. Tín tâm, sống giới hạnh
Ðủ danh xưng tài sản,
Chỗ nào người ấy đến,
Chỗ ấy được cung kính.
14. Saddho sīlena sampanno – yasobhogasamappito
Yam yaṁ padesaṁ bhajati tattha tatth’ eva pūjito.
4. Người có đức tin, đầy đủ về giới, đạt được danh vọng và của cải, giao thiệp bất cứ địa phương nào đều được tôn vinh tại chính mỗi một nơi ấy.

[304] 15. Người lành dầu ở xa
Sáng tỏ như núi tuyết,
Người ác dầu ở gần
Như tên bắn đêm đen.
15. Dūre santo pakāsenti – himavanto’ va pabbato
Asant’ ettha na dissanti – ratti khittā yathā sarā.
15. Những người tốt tỏa sáng ở nơi xa, ví như núi Hi-mã-lạp. Những kẻ xấu ở đây (vẫn) không được nhìn thấy, giống như những mũi tên được bắn ra vào ban đêm.

[305] 16. Ai ngồi nằm một mình.
Ðộc hành không buồn chán,
Tự điều phục một mình
Sống thoải mái rừng sâu.
16. Ekāsanaṁ ekaseyyaṁ – eko caram atandito
Eko damayam attānaṁ – vanante ramito siyā.
6. Ngồi một mình, nằm một mình, đi một mình, không lười biếng, một mình, trong khi thuần hóa bản thân, nên thích thú ở cuối khu rừng.

5. PHẨM ĐỊA NGỤC - NIRAYA VAGGA
[306] 1. Nói láo đọa địa ngục
Có làm nói không làm,
Cả hai chết đồng đẳng,
Làm người, nghiệp hạ liệt.
1. Abhūtavādī nirayaṁ upeti –
Yo c’āpi katvā na karomī’ti c’āha
Ubho’ pi te pecca samā bhavanti –
Nihīnakammā manujā parattha.
1. Kẻ có lời nói không thật đi đến địa ngục, hoặc thậm chí người nào, sau khi làm, đã nói là: ‘Tôi không làm;’ cả hai hạng người có nghiệp hạ liệt ấy, sau khi chết, là giống như nhau ở cảnh giới khác.

[307] 2. Nhiều người khoác cà sa,
Ác hạnh không nhiếp phục.
Người ác, do ác hạnh,
Phải sanh cõi Ðịa ngục.
Pāpā pāpehi kammehi – nirayaṁ te upapajjare.
2. Có nhiều kẻ, cổ quấn y casa, (hành) theo pháp ác, không tự chế ngự, những kẻ xấu xa ấy, do các nghiệp ác, bị sanh vào địa ngục.

[308] 3. Tốt hơn nuốt hòn sắt
Cháy đỏ như than hồng,
Hơn ác giới, buông lung
Ăn đồ ăn quốc độ.
3. Seyyo ayoguḷo bhutto – tattho aggisikhūpamo
Yañ ce bhuñjeyya dussīlo – raṭṭhapiṇḍaṁ asaññato.
3. Hòn sắt, bị cháy rực tựa như ngọn lửa được ăn vào là tốt hơn so với kẻ có giới tồi, không tự chế ngự, ăn đồ ăn khất thực của xứ sở.

[309] 4. Bốn nạn chờ đợi người,
Phóng dật theo vợ người;
Mắc họa, ngủ không yên,
Bị chê là thứ ba,
Ðọa địa ngục, thứ bốn.
4. Cattāri ṭhānāni naro pamatto – āpajjati paradārūpasevī
ApuññaIābhaṁ na nikāmaseyyaṁ – nindaṁ tatiyaṁ nirayaṁ catutthaṁ.
4. Nam nhân phóng dật quyến rũ vợ người khác gánh chịu bốn trường hợp: nhận lãnh điều vô phước, ngủ không thoải mái, sự chê trách là thứ ba, địa ngục là thứ tư.

[310] 5. Mắc họa, đọa ác thú,
Bị hoảng sợ, ít vui.
Quốc vương phạt trọng hình.
Vậy chớ theo vợ người.
5. Apuññalābho ca gatī ca pāpikā – bhītassa bhītāya ratī ca thokikā
Rājā ca daṇḍaṁ garukam paṇeti – tasmā naro paradāraṁ na seve.
5. Sự nhận lãnh điều vô phước và cảnh giới tái sanh xấu xa,
sự vui thích của người nam bị hoảng sợ với người nữ bị hoảng sợ là ít ỏi,
và đức vua áp dụng hành phạt nặng nề;
vì thế nam nhân không nên ve vãn vợ người khác.

[311] 6. Như cỏ sa vụng nắm,
Tất bị họa đứt tay
Hạnh Sa môn tà vạy,
Tất bị đọa địa ngục.
6. Kuso yathā duggahito – hattham evānukantati
Sāmaññaṁ dupparāmaṭṭhaṁ nirayāyūpakaḍḍhati.

[312] 7. Sống phóng đãng buông lung,
Theo giới cấm ô nhiễm,
Sống Phạm hạnh đáng nghi
Sao chứng được quả lớn?
7. Yaṁ kiñci sithilaṁ kammaṁ saṅkiliṭṭhañ ca yaṁ vataṁ
Saṅkassaraṁ brahmacariyaṁ na taṁ hoti mahapphalaṁ.

[313] 8. Cần phải làm, nên làm
Làm cùng tận khả năng
Xuất gia sống phóng đãng,
Chỉ tăng loạn bụi đời.
8. Kayirā ce kayirāthenaṁ – dalham enaṁ parakkame
Sithilo hi paribbājo – bhiyyo ākirate rajaṁ.
8. Nếu cần phải làm (điều gì) thì nên làm điều ấy, nên ra sức cho việc ấy một cách bền bỉ, bởi vì vị xuất gia bị chểnh mảng làm khuấy động bụi bẩn còn nhiều hơn.

[314] 9. Ác hạnh không nên làm,
Làm xong, chịu khổ lụy,
Thiện hạnh, ắt nên làm,
Làm xong, không ăn năn.
9. Akataṁ dukkataṁ seyyo – pacchā tapati dukkataṁ
Katañ ca sukataṁ seyyo – yaṁ katvā n’ānutappati.
9. Ác hạnh không làm thì tốt hơn, ác hạnh gây bực bội về sau này; còn thiện hạnh được làm thì tốt hơn, sau khi làm điều ấy không tiếc nuối.

[315] 10. Như thành ở biên thùy,
Trong ngoài đều phòng hộ
Cũng vậy, phòng hộ mình,
Sát na chớ buông lung.
Giây phút qua, sầu muộn.
Khi rơi vào địa ngục.
10. Nagaraṁ yathā paccantaṁ guttaṁ santarabāhiraṁ
Evaṁ gopetha attānaṁ khaṇo ve mā upaccagā
Khaṇātītā hi socanti – nirayamhi samappitā.

[316] 11. Không đáng hổ, lại hổ.
Việc đáng hổ, lại không.
Do chấp nhận tà kiến,
Chúng sanh đi ác thú.
11. Ājjitāye lajjanti – lajjitāye na lajjare
Micchādiṭṭhisamādānā – sattā gacchanti duggatiṁ.
11. Xấu hổ về điều không đáng xấu hổ, không xấu hổ về điều đáng xấu hổ, các chúng sanh có sự nắm giữ tà kiến đi đến khổ cảnh.

[317] 12. Không đáng sợ, lại sợ,
Ðáng sợ, lại thấy không,
Do chấp nhận tà kiến.
Chúng sanh đi ác thú.
12. Abhaye ca bhayadassino – bhaye cābhayadassino
Micchādiṭṭhisamādānā – sattā gacchanti duggatiṁ.
12. Thấy sợ hãi về điều không đáng sợ hãi, và thấy không sợ hãi về điều đáng sợ hãi, các chúng sanh có sự nắm giữ tà kiến đi đến khổ cảnh.

[318] 13. Không lỗi, lại thấy lỗi,
Có lỗi, lại thấy không,
Do chấp nhận tà kiến,
Chúng sanh đi ác thú.
13. Avajje vajjadassino – vajje cāvajjadassino
Micchādiṭṭhisamādānā – sattā gacchanti duggatiṁ.
13. Nghĩ là tội lỗi về điều không tội lỗi, và thấy không tội lỗi về điều tội lỗi, các chúng sanh có sự nắm giữ tà kiến đi đến khổ cảnh.

[319] 14. Có lỗi, biết có lỗi,
Không lỗi, biết là không,
Do chấp nhận chánh kiến,
Chúng sanh đi cõi lành.
14. Vajjañ ca vajjato ñatvā – avajjañ ca avajjato sammādiṭṭhisamādānā sattā gacchanti suggatiṁ.
14. Sau khi biết rằng tội lỗi là tội lỗi, và không tội lỗi là không tội lỗi, các chúng sanh có sự nắm giữ chánh kiến đi đến nhàn cảnh.

23. PHẨM VOI - NĀGA VAGGA
[320] 1. Ta như voi giữa trận,
Hứng chịu cung tên rơi,
Chịu đựng mọi phỉ báng.
Ác giới rất nhiều người.
1. Ahaṁ nāgo’ va saṅgāme – cāpāto patitaṁ saraṁ
Ativākyaṁ titikkhissaṁ – dussīlo hi bahujjano.
1. Ví như con voi ở chiến trường chịu đựng mũi tên bắn ra từ cây cung, Ta sẽ chịu đựng lời mắng nhiếc bởi vì kẻ ác giới là số đông.

[321] 2. Voi luyện, đưa dự hội,
Ngựa luyện, được vua cưỡi,
Người luyện, bậc tối thượng
Chịu đựng mọi phỉ báng.
2. Dantaṁ nayanti samitiṁ – dantaṁ rājābhirūhati
Danto seṭṭho manussesu – yo’ tivākyaṁ titikkhati.
2. Người ta đưa (voi) đã được rèn luyện đến nơi tụ hội. Đức vua cỡi lên (voi) đã được rèn luyện. Người đã được rèn luyện chịu đựng lời mắng nhiếc là hạng nhất giữa đám người.

[322] 3. Tốt thay, con la thuần,
Thuần chủng loài ngựa Xinh.
Ðại tượng, voi có ngà.
Tự điều mới tối thượng.
3. Varaṁ assatarā dantā – ājāīyā ca sindhavā
Kuñjarā ca mahānāgā – attadanto tato varaṁ.
3. Cao quý thay những con lừa đã được thuần hóa, những con ngựa Sindhu thuần chủng, và những con voi thuộc loài khổng tượng, người đã tự rèn luyện bản thân là cao quý hơn cả.

[323] 4. Chẳng phải loài cưỡi ấy,
Ðưa người đến Niết-Bàn,
Chỉ có người tự điều,
Ðến đích, nhờ điều phục.
4. Na hi etehi yānehi gaccheyya agataṁ disaṁ
Yathā’ ttanā sudantena – danto dantena gacchati.
4. Bởi vì chẳng phải nhờ vào những cỗ xe ấy mà có thể đi đến nơi chưa đi đến (Niết Bàn), như là nhờ vào bản thân đã khéo được rèn luyện. Do nhờ đã được rèn luyện mà người đã được rèn luyện đi đến (Niết Bàn).

[324] 5. Con voi tên Tài Hộ,
Phát dục, khó điều phục,
Trói buộc, không ăn uống.
Voi nhớ đến rừng voi.
5. Dhanapālako nāma kuñjaro – kaṭukappabhedano dunnivārayo
Baddho kabalaṁ na bhuñjati sumarati nāgavanassa kuñjaro.
5. Con voi tên Dhanapālaka có cơn phát dục khó kiềm chế. Bị trói buộc, nó không ăn miếng nào, con voi tưởng nhớ đến khu rừng của loài voi.

[325] 6. Người ưa ngủ, ăn lớn
Nằm lăn lóc qua lại,
Chẳng khác heo no bụng,
Kẻ ngu nhập thai mãi.
6. Middhī yadā hoti mahagghaso ca – niddāyitā samparivattasāyī
Mahāvarāho’ va nivāpapuṭṭho punappunaṁ gabbham upeti mando.
6. Lúc biếng nhác và ăn nhiều, mê ngủ, nằm trăn trở, ví như con heo bự được nuôi bằng cám thừa, kẻ ngu sanh vào bào thai lượt này đến lượt khác.

[326] 7. Trước tâm này buông lung,
Chạy theo ái, dục, lạc.
Nay Ta chánh chế ngự,
Như cầm móc điều voi.
7. Idaṁ pure cittam acāri cārikaṁ – yena’ icchakaṁ yatthakāmaṁ yathāsukhaṁ
Tadajj’ ahaṁ niggahessāmi yoniso – hatthippabhinnaṁ viya ankusaggaho.
7. Trước kia tâm này đã suy nghĩ vẩn vơ
đến nơi nào theo ước muốn, theo như ý thích, thuận theo khoái lạc,
hôm nay ta sẽ khuất phục nó đúng theo đường lối,
ví như viên quản tượng khống chế sự phá quấy của con voi.

[327] 8. Hãy vui không phóng dật,
Khéo phòng hộ tâm ý.
Kéo mình khỏi ác đạo,
Như voi bị sa lầy.
8. Appamādaratā hotha – sacittam anurakkhatha
Duggā uddharath’ attānaṁ – paṅke satto’ va kuñjaro.
8. Các ngươi hãy thỏa thích việc không xao lãng, hãy phòng hộ tâm của mình, hãy nâng bản thân vượt khỏi chốn hiểm nghèo, ví như con voi bị sa vào vũng bùn (cố gắng đem thân ra khỏi bãi lầy).

[328] 9. Nếu được bạn hiền trí
Ðáng sống chung, hạnh lành,
Nhiếp phục mọi hiểm nguy
Hoan hỷ sống chánh niệm.
Abhibhuyya sabbāni parissayāni – careyya ten’ attamano satīmā.
9. Nếu có thể đạt được người bạn khôn ngoan,
làm người đồng hành, có cách cư xử tốt đẹp, sáng trí,
sau khi vượt qua mọi hiểm nạn
nên đi với người ấy, hoan hỷ, có niệm.

[329] 10. Không gặp bạn hiền trí.
Ðáng sống chung, hạnh lành
Như vua bỏ nước bại,
Hãy sống riêng cô độc,
Như voi sống rừng voi.
10. No ce Iabetha nipakaṁ sahāyaṁ – saddhiṁ caraṁ sādhuvihāridhīraṁ
Rāja’ va raṭṭhaṁ vijitaṁ pahāya eko care mātaṅgaraññ’ eva nāgo.
10. Nếu không thể đạt được người bạn khôn ngoan,
làm người đồng hành, có cách cư xử tốt đẹp, sáng trí,
ví như vị vua đã từ bỏ vương quốc thâu phục được,
nên sống một mình như là voi Mātaṅga ở trong rừng.

[330] 11. Tốt hơn sống một mình,
Không kết bạn người ngu.
Ðộc thân, không ác hạnh
Sống vô tư vô lự,
Như voi sống rừng voi.
11. Ekassa caritaṁ seyyo natthi bāle sahāyatā
Eko care na ca pāpāni kayirā appossukko mātaṅgaraññ eva nāgo.
11. Sống một mình là tốt hơn,
không có tình bằng hữu ở kẻ ngu.
Nên sống một mình và không nên làm các điều ác,
ít ham muốn như là voi Mātaṅga ở trong rừng.

[331] 12. Vui thay, bạn lúc cần!
Vui thay, sống biết đủ,
Vui thay, chết có đức!
Vui thay, mọi khổ đoạn.
12. Atthamhi jātamhi sukhā sahāyā – tuṭṭhī sukhā yā itarītarena
Puṅṅaṁ sukhaṁ jīvitasaṅkhayamhi sabbassa dukkhassa sukhaṁ pahānaṁ.
12. Khi có nhu cầu sanh khởi, bạn bè là hạnh phúc,
hoan hỷ với bất cứ vật nào (có được) là hạnh phúc,
vào lúc chấm dứt mạng sống, phước báu là hạnh phúc,
từ bỏ mọi khổ đau là hạnh phúc.

[332] 13. Vui thay, hiếu kính mẹ,
Vui thay, hiếu kính cha,
Vui thay, kính Sa môn,
Vui thay, kính Hiền Thánh.
13. Sukhā matteyyatā loke atho petteyyatā sukhā
Sukhā sāmaññatā loke atho brahmaññatā sukhā.
13. Ở đời, phụng dưỡng mẹ là hạnh phúc, phụng dưỡng cha là hạnh phúc. Ở đời, phục vụ Sa-môn là hạnh phúc, phục vụ Bà-la-môn là hạnh phúc.

[333] 14. Vui thay, già có giới!
Vui thay, tín an trú!
Vui thay, được trí tuệ,
Vui thay, ác không làm.
14. Sukhaṁ yāva jarā silāṁ – sukhā saddhā patiṭṭhitā
Sukho paññāya paṭilābho – pāpānaṁ akaraṇaṁ sukhaṁ.
14. Giới hạnh cho đến già là hạnh phúc. Niềm tin được thiết lập là hạnh phúc. Thành tựu trí tuệ là hạnh phúc. Không làm các điều ác là hạnh phúc.

24. PHẨM ÁI DỤC - TAṆHĀ VAGGA
[334] 1. Người sống đời phóng dật,
Ái tăng như giây leo.
Nhảy đời này đời khác,
Như vượn tham quả rừng.
1. Manujassa pamattacārino – taṇhā vaḍḍhati māluvā viya
So plavati hurāharaṁ – phalam icchaṁ’va vanasmiṁ vānaro.
1. Tham ái của kẻ sống xao lãng tăng trưởng giống như dây leo. Kẻ ấy lao từ kiếp sống này sang kiếp sống khác, ví như loài khỉ đang mong muốn trái cây trong rừng (chuyền từ cành cây này sang cành cây khác).

[335] 2. Ai sống trong đời này,
Bị ái dục buộc ràng
Sầu khổ sẽ tăng trưởng,
Như cỏ Bi gặp mưa.
2. Yaṁ esā sahatī jammī – taṇhā loke visattikā
Sokā tassa pavaḍḍhanti – abhivaṭṭhaṁ’ va biraṇaṁ.
2. Tham ái thấp hèn, sự vướng mắc vào thế gian, chế ngự kẻ nào, các sầu muộn của kẻ ấy tăng trưởng, ví như cỏ bīraṇa được trời mưa.

[336] 3. Ai sống trong đời này
Ái dục được hàng phục
Sầu rơi khỏi người ấy
Như giọt nước lá sen.
3. Yo c’ etaṁ sahātī jammiṁ – taṇhaṁ loke duraccayaṁ
Sokā tamhā papatanti – udabindu’ va pokkharā vo.

[337] 4. Ðây điều lành Ta dạy,
Các người tụ họp đây.
Hãy nhổ tận gốc ái
Như nhổ gốc cỏ Bi.
Chớ để ma phá hoại,
Như giòng nước cỏ lau.
Taṇhāya mūlaṁ khanatha – usīrattho’ va bīraṇaṁ
Mā vo naḷaṁ va soto’ va – māro bhanji punappunaṁ.
4. Ta nói với các con điều này: -Mong sao điều tốt đẹp sẽ đến với hết thảy các con đã tụ hội tại đây. Các con hãy đào xới gốc rễ của tham ái, ví, như người có sự cần dùng rễ ngọt usīra (đào xới) cỏ bīraṇa. Chớ để Ma Vương đốn ngã các con đợt này đến đợt khác, ví như dòng nước bẻ gãy cây cỏ sậy.

[338] 5. Như cây bị chặt đốn,
Gốc chưa hại vẫn bền
Ái tùy miên chưa nhổ,
Khổ này vẫn sanh hoài.
5. Yathā’ pi mūle anupaddave daḷhe – chinno’ pi rukkho punareva ruhāti
Evam pi taṇhānusaye anūhate – nibbattatī dukkham idaṁ punappunaṁ.
5. Giống như khi bộ rễ vẫn chưa bị tổn hại và còn vững chắc,
cội cây, mặc dầu đã bị đốn ngã, cũng vẫn đâm chồi trở lại,
cũng như vậy, khi sự tiềm ẩn của tham ái chưa bị tận diệt,
khổ đau này còn sanh lên đợt này này đến đợt khác.

[339] 6. Ba mươi sáu dòng Ái,
Trôi người đốn khả ái.
Các tư tưởng tham ái.
Cuốn trôi người tà kiến.
6. Yassa chattiṁsatī sotā – manāpassavanā bhusā
Vāhā vahanti duddiṭṭhiṁ – saṅkappā rāganissitā.
6. Người nào có ba mươi sáu dòng chảy[5] hướng đến sự hài lòng thích ý là mạnh mẽ, thì các suy tầm chiều theo luyến ái là luồng chuyển vận cuốn trôi kẻ có quan điểm sái quấy (ấy).
[5] ba mươi sáu dòng chảy: nói đến sáu ái liên quan nội phần và sáu ái liên quan ngoại phần, ở vào ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai

[340] 7. Dòng ái dục chảy khắp,
Như giây leo mọc tràn,
Thấy giây leo vừa sanh,
Với tuệ, hãy đoạn gốc.
7. Savanti sabbadhī sotā – latā ubbhijja tiṭṭhati
Tañ ca disvā lataṁ jātaṁ – mūlaṁ paññāya chindatha.
7. Các dòng chảy trôi đi khắp mọi nơi, loại dây leo tồn tại sau khi đâm chồi. Và sau khi nhìn thấy loại dây leo ấy sanh ra, các ngươi hãy chặt đứt gốc rễ bằng trí tuệ.

[341] 8. Người đời nhớ ái dục,
Ưa thích các hỷ lạc.
Tuy mong cầu an lạc,
Họ vẫn phải sanh già.
8. Saritāni sinehitāni ca – somanassāni bhavanti jantuno
Te sātasitā sukhesino – te ve jātijarūpagā narā.
8. Các nỗi niềm yêu thương được tuôn trào và các tâm khoan khoái hiện hữu ở chúng sanh. Những kẻ ấy chiều theo lạc thú, tầm cầu sung sướng, thật vậy những kẻ ấy đi đến sanh và già.

[342] 9. Người bị ái buộc ràng,
Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới.
Họ sanh ái trói buộc,
Chịu khổ đau dài dài.
9. Tasiṇāya purakkhatā pajā – parisappanti saso’ va bādhito
Saññojanasaṅgasattā-dukkham upenti punappunaṁ cirāya.
9. Bị vây hãm bởi tham ái chúng sanh di chuyển loanh quanh, ví như con thỏ bị trói buộc bò vòng quanh. Bị dính mắc bởi các sự trói buộc và quyến luyến, chúng đi đến khổ đau lượt này đến lượt khác trong thời gian lâu dài.

[343] 10. Người bị ái buộc ràng,
Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới.
Do vậy vị tỷ kheo,
Mong cầu mình ly tham
Nên nhiếp phục ái dục.
10. Tasiṇāya purakkhatā pajā – parisappanti saso’ va bādhito
Tasmā tasiṇaṁ vinodaye – bhikkhu ākaṅkhī virāgam attano.
10. Bị vây hãm bởi tham ái chúng sanh di chuyển loanh quanh, ví như con thỏ bị trói buộc bò vòng quanh. Vì thế, vị tỳ khưu có sự mong muốn xa lìa luyến ái cho bản thân nên tiêu diệt tham ái.

[344] 11. Lìa rừng lại hướng rừng
Thoát rừng chạy theo rừng.
Nên xem người như vậy,
Ðược thoát khỏi buộc ràng.
Lại chạy theo ràng buộc.
11. Yo nibbanatho vanādhimutto – vanamutto vanam eva dhāvati
Taṁ puggalam etha passatha – mutto bandhanam eva dhāvati.
11. Hãy đến nhìn xem cá nhân kẻ đứng bên ngoài rừng (đời sống tại gia) lại bị ám ảnh bởi rừng, đã được thoát ra khỏi rừng lại chạy vào trong rừng, đã được tự do lại chạy đến với sự giam cầm.

[345] 12. Sắt, cây, gai trói buộc
Người trí xem chưa bền.
Tham châu báu, trang sức
Tham vọng vợ và con.
12. Na taṁ daḷhaṁ bandhanam āhu dhīrā – yadāyasaṁ dārujaṁ babbajañ ca
Sārattarattā maṇikuṇdḍlesu puttesu dāresu ca yā apekkhā.
12. Các bậc sáng trí đã nói rằng sự trói buộc làm bằng sắt, bằng gỗ, và bằng dây gai là không chắc chắn. Sự mong muốn, bị luyến ái dính mắc ở các bông tai gắn ngọc ma-ni, ở những người con, và ở những người vợ, …

[346] 13. Người có trí nói rằng:
“Trói buộc này thật bền.
Rì kéo xuống, lún xuống,
Nhưng thật sự khó thoát.
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ dục lạc, không màng.
13. Etaṁ daḷhaṁ bandhanam āhu dhīrā – ohārinaṁ sithilaṁ duppamuñcaṁ
Etam pi chetvāna vajanti dhīrā anapekkhino kāmasukhaṁ pahāya.
13. … các bậc sáng trí đã nói rằng sự trói buộc này là chắc chắn,
có sự trì xuống, dẻo dai, khó tháo gỡ.
Sau khi cắt đứt luôn cả sự trói buộc này, các vị xuất gia,
không có mong cầu, sau khi đã dứt bỏ khoái lạc của các dục.

[347] 14. Người đắm say ái dục
Tự lao mình xuống dòng
Như nhện sa lưới dệt.
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ mọi khổ, không màng.
14. Ye rāgarattānupatanti sotaṁ sayaṁ kataṁ makkaṭako’ va jātaṁ
Etaṁ pi chetvāna vajanti dhīrā anapekkhino sabbadukkhaṁ pahāya.
14. Những người nào, bị luyến ái dục tình, rơi theo dòng chảy,
được tạo ra bởi bản thân, ví như con nhện rơi vào cái lưới do nó tạo ra.
Sau khi cắt đứt luôn cả điều này, các vị ra đi,
không có mong cầu, sau khi đã dứt bỏ tất cả khổ đau.

[348] 15. Bỏ quá, hiện, vị lai,
Ðến bờ kia cuộc đời,
Ý giải thoát tất cả,
Chớ vướng lại sanh già.
15. Muñca pure muñca pacchato majjhe muñca bhavassa pāragū
Sabbattha vimuttamānaso – na puna jātijaraṁ upehisi.
15. Hãy buông phía trước (quá khứ), hãy buông phía sau (vị lai), hãy buông phần giữa (hiện tại), sau khi đã đi đến bờ kia của hiện hữu, có tâm đã được giải thoát về mọi phương diện, ngươi sẽ không đi đến sanh và già nữa.

[349] 16. Người tà ý nhiếp phục,
Tham sắc bén nhìn tịnh,
Người ấy ái tăng trưởng,
Làm giây trói mình chặt.
16. Vitakkapamathitassa jantuno tibbarāgassa subhānupassino
Bhiyyo taṇhā pavaḍḍhati – esa kho daḷhaṁ karoti bandhanaṁ.
16. Tham ái gia tăng nhiều hơn nữa đối với kẻ bị suy tư khuấy động, có luyến ái mãnh liệt, thường xem xét về cái đẹp; kẻ ấy quả nhiên làm cho sự trói buộc trở nên bền chắc.

[350] 17. Ai vui, an tịnh ý,
Quán bất tịnh, thường niệm,
Người ấy sẽ diệt ái,
Cắt đứt Ma trói buộc.
17. Vitakkūpasame ca yo rato – asubhaṁ bhāvayati sadā sato
Esa kho vyantikāhiti eso checchati mārabandhanaṁ.
17. Còn người nào thích thú ở sự tịnh lặng của suy tư, tu tập về bất tịnh (đề mục tử thi), luôn luôn có niệm, người ấy quả nhiên sẽ làm chấm dứt (ái dục), người ấy sẽ cắt đứt sự trói buộc của Ma Vương.

[351] 18. Ai tới đích, không sợ,
Ly ái, không nhiễm ô
Nhổ mũi tên sanh tử,
Thân này thân cuối cùng.
Acchiddi bhavasallāni – antimo’ yaṁ samussayo.
18. Người đã đạt đến sự hoàn thành, không sợ hãi, tham ái đã lìa, không vết nhơ, đã cắt đứt những mũi tên của hiện hữu; thân này là cuối cùng.

[352] 19. Ai tới đích, không sợ,
Ly ái, không nhiễm ô
Nhổ mũi tên sanh tử,
Thân này thân cuối cùng.
19. Vītataṇho anādāno – niruttipadakovido
Akkharānaṁ sannipātaṁ jaññā pubbaparāni ca
Sa ve antimasārīro – mahāpañño mahāpuriso’ti vuccati.
19. Người có tham ái đã lìa, không nắm giữ, thông thạo về từ ngữ, biết sự kết hợp của các mẫu tự và các thứ tự trước sau; vị ấy quả nhiên có xác thân cuối cùng, có đại trí tuệ, được gọi là ‘đại nhân.’

[353] 20. Ta hàng phục tất cả,
Ta rõ biết tất cả,
Không bị nhiễm pháp nào.
Ta từ bỏ tất cả
Ái diệt, tự giải thoát.
Ðã tự mình thắng trí,
Ta gọi ai thầy ta?
20. Sabbābhibhū sabbavidū’ ham asmi – sabbesu dhammesu anū palitto
Sabbañjaho taṇhakkaye vimutto sayaṁ abhiññāya kam uddiseyyaṁ
20. Ta là vị khuất phục tất cả, vị biết rõ tất cả,
không bị nhiễm ô trong tất cả các pháp.
Từ bỏ tất cả, được giải thoát trong sự diệt tận về tham ái,
sau khi tự mình biết rõ, Ta có thể chỉ định ai (là thầy)?

[354] 21. Pháp thí, thắng mọi thí!
Pháp vị, thắng mọi vị!
Pháp hỷ, thắng mọi hỷ!
Ái diệt, dứt mọi khổ!
Sabbaṁ ratiṁ dhammaratī jināti – taṇhakkhayo sabbadukkhaṁ jināti.
21. Bố thí pháp thắng mọi sự bố thí,
hương vị của pháp thắng mọi hương vị,
sự thích thú trong pháp thắng mọi sự thích thú,
sự diệt trừ tham ái thắng mọi khổ đau.

[355] 22. Tài sản hại người ngu.
Không người tìm bờ kia
Kẻ ngu vì tham giàu,
Hại mình và hại người.
Bhogataṇhāya dummedho – hanti aññe’ va attanam.
22. Các của cải giết hại kẻ ngu si, nhưng không (giết hại) những vị tầm cầu đến bờ kia (Niết Bàn). Do tham đắm của cải, kẻ ngu si giết hại bản thân ví như (giết hại) những người khác.

[356] 23. Cỏ làm hại ruộng vườn,
Tham làm hại người đời.
Bố thí người ly tham,
Do vậy được quả lớn.
23. Tiṇadosāni khettāni – rāgadosā ayaṁ pajā
Tasmā hi vītarāgesu – dinnaṁ hoti mahapphalaṁ
23. Những thửa ruộng có các cỏ dại là khuyết điểm. Con người này có luyến ái là khuyết điểm. Chính vì điều ấy, vật đã được bố thí ở các vị đã xa lìa luyến ái là có quả báu lớn lao.

[357] 24. Cỏ làm hại ruộng vườn,
Sân làm hại người đời.
Bố thí người ly sân,
Do vậy được quả lớn.
24. Tiṇadosāni khettāni – mohadosā ayaṁ pajā
Tasmā hi vītamohesu – dinnaṁ hoti apphalaṁ.
24. Những thửa ruộng có các cỏ dại là khuyết điểm. Con người này có sân hận là khuyết điểm. Chính vì điều ấy, vật đã được bố thí ở các vị đã xa lìa sân hận là có quả báu lớn lao.

[358] 25. Cỏ làm hại ruộng vườn,
Si làm hại người đời,
Bố thí người ly si,
Do vậy được quả lớn.
25. Tiṇadosāni khettāni – mohadosā ayaṁ pajā
Tasmā hi vītamohesu – dinnaṁ hoti mahapphalaṁ.

[359] 26. Cỏ làm hại ruộng vườn,
Dục làm hại người đời.
Bố thí người ly dục,
Do vậy được quả lớn.
25. Tiṇadosāni khettāni – mohadosā ayaṁ pajā
Tasmā hi vītamohesu – dinnaṁ hoti mahapphalaṁ.
26. Những thửa ruộng có các cỏ dại là khuyết điểm. Con người này có ước muốn là khuyết điểm. Chính vì điều ấy, vật đã được bố thí ở các vị đã xa lìa ước muốn là có quả báu lớn lao.

25. PHẨM TỲ KHƯU - BHIKKHU VAGGA
[360] 1. Lành thay, phòng hộ mắt!
Lành thay, phòng hộ tai.
Lành thay, phòng hộ mũi,
Lành thay, phòng hộ lưỡi.
Ghāṇena saṁvaro sādhu – sādhu jivhāya sāṁvaro.
1. Tốt đẹp thay sự thu thúc ở mắt! Tốt đẹp thay sự thu thúc ở tai! Tốt đẹp thay sự thu thúc ở mũi! Tốt đẹp thay sự thu thúc ở lưỡi!

[361] 2. Lành thay,phòng hộ thân!
Lành thay, phòng hộ lời,
Lành thay, phòng hộ ý.
Lành thay, phòng tất cả.
Tỷ kheo phòng tất cả.
Thoát được mọi khổ đau.
2. Kāyena saṁvaro sādhu – sādhu vācāya saṁvaro
Manasā saṁvaro sādhu – sādhu sabbattha saṁvaro
Sabbattha saṁvuto bhikkhu sabbadukkhā pamuccati.
2. Tốt đẹp thay sự thu thúc ở thân! Tốt đẹp thay sự thu thúc ở khẩu! Tốt đẹp thay sự thu thúc ở ý! Tốt đẹp thay sự thu thúc ở tất cả các nơi (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, khẩu, ý)! Vị tỳ khưu thu thúc ở tất cả các nơi được thoát khỏi mọi khổ đau.

[362] 3. Người chế ngự tay chân,
Chế ngự lời và đầu,
Vui thích nội thiền định.
Ðộc thân, biết vừa đủ,
Thật xứng gọi tỷ kheo.
3. Hatthasaññato pādasaññato vācāya saññato saññatuttamo
Ajjhattarato samāhito – eko santusito tam āhu bhikkhuṁ.
3. Vị đã chế ngự bàn tay, đã chế ngự bàn chân,
đã chế ngự lời nói, đã chế ngự bản thân,
được thích thú ở nội tâm, định tĩnh,
đơn độc, hài lòng, (người ta) đã gọi vị ấy là tỳ khưu.

[363] 4. Tỷ kheo chế ngự miệng,
Vừa lời, không cống cao,
Khi trình bày pháp nghĩa,
Lời lẽ dịu ngọt ngào.
4. Yo mukhasaññato bhikkhu – mantabhāṇī anuddhato
Atthaṁ dhammañ ca dīpeti madhuraṁ tassa bhāsitaṁ.
4. Vị tỳ khưu nào đã chế ngự miệng, có lời nói khôn khéo, không cao ngạo, làm sáng tỏ ý nghĩa và Giáo Pháp; lời nói của vị ấy là ngọt ngào.

[364] 5. Vị tỷ kheo thích Pháp,
Mến pháp, suy tư Pháp.
Tâm tư niệm chánh Pháp,
Không rời bỏ chánh Pháp.
5. Dhammārāmo dhammarato – dhammaṁ anuvicintayaṁ
Dhammaṁ anussaraṁ bhikkhu saddhammā na parihāyati.
5. Có chỗ trú là Giáo Pháp, được vui thích với Giáo Pháp, suy nghĩ về Giáo Pháp, tùy niệm về Giáo Pháp, vị tỳ khưu không rời bỏ Chánh Pháp.

[365] 6. Không khinh điều mình được,
Không ganh người khác được
Tỷ kheo ganh tị người,
Không sao chứng Thiền Ðịnh.
Aññesaṁ pihayaṁ bhikkhu samādhiṁ n’ādhigacchati.
6. Không nên khinh chê phần thọ lãnh của mình, không nên thể hiện sự thèm muốn (phần) của những người khác, trong khi thèm muốn (phần) của những người khác, vị tỳ khưu không đạt được định.

[366] 7. Tỷ kheo dầu được ít,
Không khinh điều mình được,
Sống thanh tịnh không nhác,
Chư thiên khen vị này.
7. Appalābho’ pi ce bhikkhu – salābhaṁ n’ātimaññati
Taṁ ve devā pasaṁsanti – suddhājīvaṁ atanditaṁ.
7. Thậm chí nếu phần thọ lãnh là ít ỏi, vị tỳ khưu không nên khinh chê phần thọ lãnh của mình. Chư Thiên quả thật ca ngợi vị có sự nuôi mạng trong sạch, không lười biếng ấy.

[367] 8. Hoàn toàn, đối danh sắc,
Không chấp Ta, của Ta.
Không chấp, không sầu não.
Thật xứng danh Tỷ kheo.
8. Sabbaso nāmarūpasmiṁ – yassa natthi mamāyitaṁ
Asatā ca na socati – sa ve bhikkhū’ ti vuccati.
8. Vị nào không có việc chấp là ‘của ta’ ở danh và sắc về mọi mặt, và không sầu muộn về những gì không có; thật vậy vị ấy được gọi là ‘tỳ khưu.’

[368] 9. Tỷ kheo trú từ bi,
Tín thành giáo Pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tỉnh.
Các hạnh an tịnh lạc.
Adhigacche padaṁ santaṁ – sankhārūpasamaṁ sukhaṁ.
9. Vị tỳ khưu trú tâm từ, tịnh tín lời dạy của đức Phật, có thể đạt đến vị thế an tịnh, sự vắng lặng của các hành, an lạc.

[369] 10. Tỷ kheo, tát thuyền này,
Thuyền không, nhẹ đi mau.
Trừ tham, diệt sân hận,
Tất chứng đạt Niết-Bàn.
10. Siñca bhikkhu imaṁ nāvaṁ sittā te lahum essati
Chetvā rāgañ ca dosañ ca – tato nibbānam ehisi.
10. Này tỳ khưu, hãy tát cạn chiếc thuyền này. Được tát cạn, nó sẽ đi nhanh cho ngươi. Hãy chặt đứt luyến ái và sân hận, nhờ đó ngươi sẽ đi đến Niết Bàn.

[370] 11. Ðoạn năm, từ bỏ năm,
Tu tập năm tối thượng,
Tỷ kheo cắt năm trói,
Xứng danh vượt “bộc lưu”
11. Pañca chinde pañca jahe – pañca c’ uttari bhāvaye
Pañca saṅgātigo bhikkhu – oghatiṇṇo’ ti vuccati.
11. Nên chặt đứt năm (năm sự ràng buộc ở phần dưới), nên từ bỏ năm (năm sự ràng buộc ở phần trên), nên tu tập hơn nữa về năm (quyền). Là người đã vượt qua năm sự dính líu (tham, sân, si, ngã mạn, tà kiến), vị tỳ khưu được gọi là ‘đã vượt qua (bốn) dòng nước lũ.’
Năm sự ràng buộc ở phần dưới: thân kiến (sakkāyadiṭṭhi), hoài nghi (vicikichā). Giới cấm thủ (sīlabbataparāmāsa), luyến ái theo Dục giới (kāmarāga), và sân hận (Paṭigha).
Năm sự ràng buộc ở phần dưới là luyến ái theo Sắc giới (rūparāga), luyến ái theo Vô sắc giới (arūparāga), ngã mạn (māna), phóng dật (uddhacca) và vô minh (avijjā).

[371] 12. Tỷ kheo, hãy tu thiền,
Chớ buông lung phóng dật,
Tâm chớ đắm say dục,
Phóng dật, nuốt sắt nóng
Bị đốt, chớ than khổ!
12. Jhāya bhikkhu mā ca pamādo mā te kāmaguṇe bhamassu cittaṁ
Mā lohaguḷaṁ gilī pamatto – mā kandi dukkham idan’ti ḍayhamāno.
12. Này tỳ khưu, hãy tham thiền, và chớ có xao lãng.
Chớ để tâm của ngươi quanh quẩn ở các loại dục.
Chớ bị xao lãng, có việc nuốt hòn sắt (ở địa ngục).
Trong khi bị đốt nóng, chớ khóc than rằng: ‘Đây là khổ.’

[372] 13. Không trí tuệ, không thiền,
Không thiền, không trí tuệ.
Người có thiền có tuệ,
Nhất định gần Niết-Bàn.
13. Natthi jhānaṁ apaññassa – paññā natthi ajhāyato
Yambi jhānañ ca paññā ca sa ve nibbānasantike.
13. Không có thiền đối với kẻ không có trí tuệ, không có trí tuệ đối với kẻ không thiền. Ở vị nào có thiền và trí tuệ, vị ấy quả nhiên ở gần Niết Bàn.

[373] 14. Bước vào ngôi nhà trống,
Tỷ kheo tâm an tịnh,
Thọ hưởng vui siêu nhân
Tịnh quán theo chánh pháp.
14. Suññāgāraṁ paviṭṭhassa – santacittassa bhikkhuno
Amānusī ratī hoti – sammā dhammaṁ vipassato.
14. Có sự thỏa thích không thuộc loài người cho vị tỳ khưu đã đi vào ngôi nhà trống vắng, có tâm an tịnh, đang minh sát pháp một cách đúng đắn.

[374] 15. Người luôn luôn chánh niệm,
Sự sanh diệt các uẩn,
Ðược hoan hỷ, hân hoan,
Chỉ bậc bất tử biết.
15. Yato yato sammasati – khandhānaṁ udayabbayaṁ
Labhati pīti pāmojjaṁ – amataṁ taṁ vijānataṁ.
15. Mỗi một khi nắm bắt được sự sanh diệt của các uẩn, (vị ấy) đạt được hỷ và hân hoan; điều ấy, đối với các vị đang nhận thức, là Bất Tử.

[375] 16. Ðây Tỷ kheo có trí,
Tụ tập pháp căn bản
Hộ căn, biết vừa đủ,
Giữ gìn căn bản giới,
Thường gần gũi bạn lành,
Sống thanh tịnh tinh cần.
16. Tatrāyam ādi bhavati – idha paññassa bhikkhuno
Indriyagutti santuṭṭhī – pātimokkhe ca saṁvaro
Mitte bhajassu kalyāne – suddh’ ajīve atandite
16. Tại nơi ấy, điều này là sự khởi đầu của vị tỳ khưu có trí tuệ trong Giáo Pháp này: sự phòng hộ các giác quan, sự tự biết đủ, và sự thu thúc trong giới bổn Pātimokkha.

[376] 17. Giao thiệp khéo thân thiện,
Cử chỉ mực đoan trang.
Do vậy hưởng vui nhiều,
Sẽ dứt mọi khổ đau.
17. Paṭisanthāavuty’ assa – ācārakusalo siyā
Tato pāmojjabahulo – dukkhass’ antaṁ karissati.
17. Hãy thân cận các bạn hữu tốt lành có sự nuôi mạng trong sạch, không lười biếng. Nên có thói quen tiếp rước hậu hỹ, nên khéo léo trong lối cư xử. Từ đó, có nhiều hân hoan, (vị ấy) sẽ làm chấm dứt khổ đau.

[377] 18. Như hoa Vassikà,
Quăng bỏ cánh úa tàn,
Cũng vậy vị Tỷ kheo,
Hãy giải thoát tham sân
18. Vassikā vija pupphāni – maddavāni pamuñcati
Evaṁ rāgañ ca dosañ ca – vippamuñcetha bhikkhavo.
18. Này các tỳ khưu, giống như cây hoa nhài rũ bỏ những bông hoa úa tàn, tương tự như thế các ngươi hãy buông bỏ luyến ái và sân hận.

[378] 19. Thân tịnh, lời an tịnh,
An tịnh, khéo thiền tịnh.
Tỷ kheo bỏ thế vật,
Xứng danh “bậc tịch tịnh.
19. Santakāyo santavāco – santavā susamāhito
Vantalokāmiso bhikkhu – upasanto’ ti vuccati.
19. Vị tỳ khưu có thân an tịnh, có khẩu an tịnh, có sự an tịnh ở tâm, khéo được định tĩnh, có vật chất thế gian đã được tẩy trừ, được gọi là ‘bậc an tịnh.’

[379] 20. Tự mình chỉ trích mình,
Tự mình dò xét mình,
Tỷ kheo tự phòng hộ
Chánh niệm, trú an lạc
20. Attanā coday’attānaṁ – paṭimāse attam attanā 1
So attagutto satimā – sukhaṁ bhikkhu vihāhisi.
20. Hãy tự mình quở trách bản thân, hãy tự mình dò xét bản thân. Này tỳ khưu, ngươi đây được hộ trì bởi bản thân, có niệm, sẽ sống an lạc.

[380] 21. Tự mình y chỉ mình,
Tự mình đi đến mình,
Vậy hãy tự điều phục,
Như khách buôn ngựa hiền.
21. Attā hi attano nātho – attā hi attano gati
Tasmā saññamay’attānaṁ – assaṁ bhadraṁ’va vāṇijo.
21. Chính ta là người chủ của ta, chính ta là nơi nương tựa của ta. Vì thế, hãy tự chế ngự bản thân, ví như người thương buôn chế ngự con ngựa hiền.

[381] 22. Tỷ kheo nhiều hân hoan,
Tịnh tín giáo pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tịnh,
Các hạnh an tịnh lạc.
22. Pāmojjabahulo bhikkhu – pasanno buddhasāsane
Adigacche padam santaṁ – saṁkhārūpasamaṁ sukhaṁ.
22. Vị tỳ khưu có nhiều sự hân hoan, tịnh tín lời dạy của đức Phật, có thể đạt đến vị thế an tịnh, sự vắng lặng của các hành, an lạc.

[382] 23. Tỷ kheo tuy tuổi nhỏ
Siêng tu giáo pháp Phật,
Soi sáng thế gian này,
Như trăng thoát khỏi mây.
23. Yo have daharo bhīkkhu – yuñjati buddhasāsane
So imaṁ lokaṁ pabhāseti – abbhā mutto’va candimā.
23. Thật vậy, vị tỳ khưu trẻ tuổi, gắn bó vào lời dạy của đức Phật, vị ấy chiếu sáng thế gian này, ví như mặt trăng ra khỏi đám mây.

5. PHẨM BÀ-LA-MÔN - BRĀHMAṆA VAGGA
[383] 1. Hỡi này Bà là môn,
Hãy tinh tấn đoạn dòng,
Từ bỏ các dục lạc,
Biết được hành đoạn diệt,
Người là bậc vô vi.
1. Chinda sotaṁ parakkamma – kāmo panuda brāhmaṇa
Saṅkhārānaṁ khayaṁ ñatvā akataññū’ si brāhmaṇa.
1. Này Bà-la-môn, hãy cắt đứt dòng chảy (luân hồi), hãy nỗ lực, hãy xua đuổi các dục. Này Bà-la-môn, sau khi biết được sự hoại diệt của các hành, ngươi trở thành người biết được vô vi (Niết Bàn).

[384] 2. Nhờ thường trú hai pháp
Ðến được bờ bên kia.
Bà-la-môn có trí,
Mọi kiết sử dứt sạch.
2. Yadā dvayesu dhammesu – pāragū hoti brāhmaṇo
Atha’ssa sabbe saṁyogā – atthaṁ gacchanti jānato.
2. Khi vị Bà-la-môn trở thành người đã đạt đến bờ kia về cả hai pháp,[7] trong lúc vị này đang nhận biết, tất cả các sự ràng buộc đối với vị này đi đến tiêu tan.
[7] Về cả hai pháp: nói đến samathavipassanā, chỉ tịnh và minh sát (DhA. iv, 140).

[385] 3. Không bờ này, bờ kia
Cả hai bờ không có,
Lìa khổ, không trói buộc
Ta gọi Bà-la-môn.
3. Yassa pāraṁ apāraṁ vā – pārāpāraṁ na vijjati
Vītaddaraṁ visamyuttaṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
3. Đối với vị nào, bờ này hoặc bờ kia, hoặc bờ này lẫn bờ kia đều không tìm thấy, đã xa lìa sầu khổ, không bị ràng buộc, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Bờ bên này, là lục căn: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý.
Bờ bên kia, là lục trần: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.
Bên nầy và bên kia – không luyến ái điều gì như, “Ta” và “Của Ta”.

[386] 4. Tu thiền, trú ly trần
Phận sự xong, vô lậu,
Ðạt được đích tối thượng,
Ta gọi Bà-la-môn.
4. Jhāyim virajam āsīnaṁ -katakiccaṁ anāsavaṁ
Uttamatthaṁ anuppattaṁ -tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
4. Vị có thiền, không còn ô nhiễm, đã ngồi xuống (đơn độc ở khu rừng), đã làm xong phận sự, không còn lậu hoặc, đã đạt đến mục đích tối thượng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[387] 5. Mặt trời sáng ban ngày,
Mặt trăng sáng ban đêm.
Khí giới sáng Sát lỵ,
Thiền định sáng Phạm chí.
Còn hào quang đức Phật,
Chói sáng cả ngày đêm.
5. Divā tapati ādicco – rattiṁ obhāti candimā
Sannaddho khattiyo tapati – jhāyī tapati brāhmaṇo
Atha sabbam ahorattiṁ – Buddho tapati tejasā.
5. Mặt trời tỏa sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sáng ban đêm,
khoác áo giáp vị Sát-đế-lỵ tỏa sáng, có thiền vị Bà-la-môn tỏa sáng,
còn đức Phật tỏa sáng hào quang trọn ngày đêm.

[388] 6. Dứt ác gọi Phạm chí,
Tịnh hạnh gọi Sa môn,
Tự mình xuất cấu uế,
Nên gọi bậc xuất gia.
6. Bāhitapāpo’ ti brāhmaṇo – samacariyā samaṇo’ ti vuccati
Pabbājay’ attano malaṁ – tanmā pabbajito’ ti vuccati.
6. Có điều ác đã được xa lánh được gọi là ‘Bà-la-môn,’ có sở hành bình lặng được gọi là ‘Sa-môn.’ Vị đã dứt bỏ ô nhiễm của bản thân, vì thế được gọi là ‘bậc xuất gia.’

[389] 7. Chớ có đập Phạm chí!
Phạm chí chớ đập lại!
Xấu thay đập Phạm chí
Ðập trả lại xấu hơn!
7. Na brāhmaṇassa pahareyya – n’āssa muñcetha brāhmaṇo
Dhī brāhmaṅsassa hantāraṁ – tato dhī yassa muñcati.
7. Không nên đánh đập vị Bà-la-môn, vị Bà-la-môn không nên bộc phát (sự giận dữ) đến kẻ đã đánh mình. Xấu hổ thay kẻ đánh đập vị Bà-la-môn, càng xấu hổ hơn cho vị bộc phát (sự giận dữ) đến kẻ đã đánh mình.

[390] 8. Ðối với Bà-la-môn,
Ðây không lợi ích nhỏ.
Khi ý không ái luyến,
Tâm hại được chận đứng,
Chỉ khi ấy khổ diệt,
8. Na brāhmaṇass’ etadakiñci seyyo – yadā nisedho manaso piyehi
Yato yato hiṁsamano nivattati tato tato sammatimeva dukkhaṁ.
8. Vị Bà-la-môn không có việc nào khác tốt hơn việc này,
là lúc có sự đình chỉ của tâm đối với các vật đáng yêu.
Chừng nào tâm ý hãm hại được dừng lại,
chừng ấy khổ đau được thật sự yên lặng .

[391] 9. Với người thân miệng ý,
Không làm các ác hạnh
Ba nghiệp được phòng hộ,
Ta gọi Bà-la-môn.
9. Yassa kāyena vācā ya – manasā natthi dukkataṁ
Saṁvutaṁ tīhi ṭhānehi – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
9. Đối với vị nào, không có việc làm quấy do thân, do khẩu, do ý, (và) đã được thu thúc ở ba nơi (thân khẩu ý), Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[392] 10. Từ ai, biết chánh pháp
Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
Hãy kính lễ vị ấy,
Như Phạm chí chờ lửa.
10. Yamhā dhammaṁ vijāneyya sammāsambuddhadesitaṁ
Sakkaccaṁ taṁ namasseyya aggihuttaṁ’va brāhmaṁo.
10. Do vị nào mà ta có thể hiểu biết Giáo Pháp đã được đấng Chánh Đẳng Giác thuyết giảng, ta nên kính lễ vị ấy một cách nghiêm trang, ví như người Bà-la-môn kính lễ ngọn lửa tế thần.

[393] 11. Ðược gọi Bà-la-môn,
Không vì đầu bện tóc,
Không chủng tộc, thọ sanh,
Ai thật chân, chánh, tịnh,
Mới gọi Bà-la-môn.
11. Na jaṭāhi na gottena – na jaccā hoti brāhmaṇo
Yamhi saccañ ca dhammos ca so sucī so ca brāhmaṇo.
11. Không do những búi tóc bện, không do dòng họ, không do gia tộc mà trở thành Bà-la-môn. Ở vị nào có sự chân thật và sự ngay thẳng, vị ấy có sự trong sạch, chính vị ấy là Bà-la-môn.

[394] 12. Kẻ ngu, có ích gì
Bện tóc với da dê,
Nội tâm toàn phiền não,
Ngoài mặt đánh bóng suông.
12. Kiṁ te jaṭāhi dummedha – kiṁ te ajinasāṭiyā
Abbhantaraṁ te gahaṇaṁ – bāhiraṁ parimajjasi.
12. Này kẻ kém trí, có ích gì với những búi tóc bện của ngươi? Có ích gì với y phục bằng da dê của ngươi? Ngươi đánh bóng bên ngoài, bên trong của ngươi là rừng rậm (ô nhiễm).

[395] 13. Người mặc áo đống rác,
Gầy ốm, lộ mạch gân,
Ðộc thân thiền trong rừng.
Ta gọi Bà-la-môn.
13. Paṁsukūladharaṁ jantuṁ – kisaṁ dhamanisanthataṁ
Ekaṁ vanasmiṁ jhāyantaṁ tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
13. Người mang y may bằng vải bị quăng bỏ, gầy ốm, nổi đầy gân, một mình đang tham thiền trong rừng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[396] 14. Ta không gọi Phạm Chí,
Vì chỗ sanh, mẹ sanh.
Chỉ được gọi tên suông
Nếu tâm còn phiền não.
Không phiền não, chấp trước
Ta gọi Bà-la-môn.
14. Na c’ āhaṁ brāhmaṇaṁ brūmi yonijaṁ mattisambhavaṁ
Bhovādi nāma so hoti – sa ce hoti sakiñcano
Akiñcanaṁ anādānaṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
14. Và Ta không gọi là Bà-la-môn với kẻ đã được sanh ra từ tử cung (của nữ Bà-la-môn), có sự xuất thân theo người mẹ, kẻ ấy được gọi là ‘người có sự xưng hô với từ Ông’ nếu người ấy có sở hữu gì đó. Còn vị không sở hữu gì, không nắm giữ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[397] 15. Ðoạn hết các kiết sử,
Không còn gì lo sợ
Không đắm trước buộc ràng
Ta gọi Bà-la-môn.
15. Sabasañño janam chetvā – yo ve na paritassati
Saṅgātigaṁ visaṁyuttaṁ – tam ahaṁ brñmi brāhmaṇaṁ.
15. Thật vậy, người nào đã cắt đứt tất cả ràng buộc, không run sợ, đã vượt qua các sự dính líu, không còn bị ràng buộc, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[398] 16. Bỏ đai da, bỏ cương
Bỏ dây, đồ sở thuộc,
Bỏ then chốt, sáng suốt,
Ta gọi Bà-la-môn.
16. Chetvā naddhiṁ varattañ ca sandāmaṁ sahanukkamaṁ
UkkhittaPaḷighaṁ buddhaṁ tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
16. Người đã cắt đứt dây buộc (sân hận), dây trói (tham ái), dây thừng (62 tà kiến), cùng với vật phụ tùng (các pháp tiềm ẩn), đã nâng lên thanh chắn (vô minh), đã được giác ngộ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[399] 17. Không ác ý, nhẫn chịu,
Phỉ báng, đánh, phạt hình,
Lấy nhẫn làm quân lực,
Ta gọi Bà-la-môn.
17. Akkhosaṁ vadhabandhañ ca aduṭṭho yo titikkhati
Khantibalaṁ balāṇīkaṁ – tam ahaṁ brūmi brāhamaṇaṁ.
17. Người nào chịu đựng lời khiển trách, sự trừng phạt và giam cầm, mà không sân hận, người có kham nhẫn là sức mạnh, có sức mạnh là quân đội, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[400] 18. Không hận, hết bổn phận,
Trì giới, không tham ái,
Nhiếp phục, thân cuối cùng,
Ta gọi Bà-la-môn.
18. Akkodhanaṁ vatavantaṁ – sīlavantaṁ anussutaṁ
Dantaṁ antimasārīraṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
18. Người không nóng giận, có sự hành trì, có giới, không nhiễm dục vọng, đã được rèn luyện, có thân xác cuối cùng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[401] 19. Như nước trên lá sen,
Như hột cải đầu kim,
Người không nhiễm ái dục,
Ta gọi Bà-la-môn.
19. Vāripokkharapatt’ eva – āragger’ iva sāsapo
Yo na limpati kāmesu – tam ahaṁ būmi brāhmaṇāṁ.
19. Ví như nước ở lá sen, ví như hột cải ở đầu mũi kim, người nào không nhiễm bẩn trong các dục, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[402] 20. Ai tự trên đời này,
Giác khổ, diệt trừ khổ,
Bỏ gánh nặng, giải thoát,
Ta gọi Bà-la-môn.
20. Yo dukkhassa pajānāti – idh’ eva khayam attano
Pannabhāraṁ visamyuttaṁ tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
20. Người nào nhận biết sự diệt trừ khổ đau của bản thân ngay tại chỗ này, đã đặt xuống gánh nặng, không bị ràng buộc, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[403] 21. Người trí tuệ sâu xa,
Khéo biết đạo, phi đạo
Chứng đạt đích vô thượng,
Ta gọi Bà-la-môn.
21. Gambhīrapaññam medhāviṁ maggāmaggassa kovidaṁ
Uttamatthaṁ anuppattaṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
21. Người có tuệ thâm sâu, thông minh, rành rẽ về Đạo Lộ và không phải Đạo Lộ, đã đạt đến mục đích tối thượng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[404] 22. Không liên hệ cả hai,
Xuất gia và thế tục,
Sống độc thân, ít dục,
Ta gọi Bà-la-môn.
22. Asaṁsaṭṭhaṁ gahaṭṭhehi – anāgārehi c’ūbhayaṁ
Anokasāriṁ appicchaṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
22. Người không gần gũi với cả hai hạng tại gia và hạng xuất gia, sống không trú xứ, ít ham muốn, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[405] 23. Bỏ trượng, đối chúng sanh,
Yếu kém hay kiên cường,
Không giết, không bảo giết,
Ta gọi Bà-la-môn.
23. Nidhāya daṇḍaṁ bhūtesu – tasesu thāveresu ca
o na hanti na ghāteti – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
23. Sau khi bỏ xuống gậy gộc đối với các chúng sanh di động hay đứng yên, người nào không giết hại, không bảo giết hại, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[406] 24. Thân thiện giữa thù địch
Ôn hòa giữa hung hăng.
Không nhiễm, giữa nhiễm trước,
Ta gọi Bà-la-môn.
24. Aviruddhaṁ viruddhesu – attadaṇḍesu nibbutaṁ
Sādānesu anādānaṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
24. Người không thù nghịch giữa những kẻ thù nghịch, tịnh lặng giữa những kẻ có gậy gộc, không cố chấp giữa những kẻ cố chấp, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[407] 25. Người bỏ rơi tham sân,
Không mạn không ganh tị,
Như hột cải đầu kim,
Ta gọi Bà-la-môn.
25. Yassa rāgo ca doso ca – māno makkho ca pātito
Sāsaporiva āraggā tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
25. Người nào có sự luyến ái, sân hận, ngã mạn, và gièm pha đã được rơi rụng, ví như hột cải ở đầu mũi kim, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[408] 26. Nói lên lời ôn hòa,
Lợi ích và chân thật,
Không mất lòng một ai,
Ta gọi Bà-la-môn.
26. Akakkasaṁ viññāpaṇiṁ – giraṁ saccam udīraye
Yāya n’ābhisaje kiñci – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
26. Người thốt lên lời nói chân thật, không thô lỗ, ý nghĩa rõ ràng, không làm mất lòng bất cứ ai với lời nói ấy, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[409] 27. Ở đời, vật dài, ngắn,
Nhỏ, lớn, đẹp hay xấu
Phàm không cho không lấy,
Ta gọi Bà-la-môn.
27. Yo’ dha dīghaṁ va rassaṁ vā- aṇuṁ thālaṁ subhāsubhaṁ
Loke adinnaṁ nā diyati – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
27. Ở thế gian này, người nào không lấy đi vật không được cho, dầu là dài hay ngắn, nhỏ hay lớn, đẹp hay xấu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[410] 28. Người không có hy cầu,
Ðời này và đời sau,
Không hy cầu, giải thoát,
Ta gọi Bà-la-môn.
28. Āsā yassa na vijjani – asmiṁ loke paramhi ca
Nirāsayaṁ visamyuttaṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
28. Những mong cầu của người nào về đời này và đời sau không còn tìm thấy, người không mong cầu, không bị ràng buộc, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[411] 29. Người không còn tham ái,
Có trí, không nghi hoặc,
Thể nhập vào bất tử,
Ta gọi Bà-la-môn.
29. Yassālayā na vijjanti – aññāya akathaṁkathī
Amatogadhaṁ anuppattaṁ tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
29. Những ước muốn của người nào không còn tìm thấy, sau khi biết rõ không có nghi ngờ, đã đạt đến sự thể nhập Bất Tử, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[412] 30. Người sống ở đời này
Không nhiễm cả thiện ác,
Không sầu, sạch không bụi
Ta gọi Bà-la-môn.
Asakaṁ virajaṁ suddhaṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
30. Ở thế gian này, người nào đã vượt qua sự dính líu cả hai pháp thiện và ác, không sầu muộn, không ô nhiễm, trong sạch, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[413] 31. Như trăng, sạch không uế
Sáng trong và tịnh lặng,
Hữu ái, được đoạn tận,
Ta gọi Bà là môn.
31. Candaṁ’ va vimalaṁ suddhaṁ vippasannaṁ anāvilaṁ
Nandībhavaparikkhīṇaṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
31. Ví như mặt trăng không bị lấm nhơ, trong sạch, người có tâm thanh tịnh, không bị vẩn đục, đã hoàn toàn cạn kiệt sự vui thích và hiện hữu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[414] 32. Vượt đường nguy hiểm này,
Nhiếp phục luân hồi, si,
Ðến bờ kia thiền định
Không dục ái, không nghi,
Không chấp trước, tịch tịnh,
Ta gọi Bà-la-môn.
32. Yo imaṁ Paḷipathaṁ duggaṁ saṁsāraṁ moham accagā
Tiṇṇo pāragato jhāyī – anejo akathaṁ kathī
Anupādāya nibbuto – tam ahaṁ brūmi brāmaṇaṁ.
32. Người nào đã vượt qua con đường hiểm trở, khó đi này, (vòng quay) luân hồi, và sự si mê, đã vượt qua, đã đi đến bờ kia, có thiền, không dục vọng, không nghi ngờ, không chấp thủ, đã tịnh lặng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[415] 33. Ai ở đời, đoạn dục,
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Dục hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.
33. Yo’ dha kāme pahatvāna – anāgāro paribbaje
Kāmabhavaparikkīṇaṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
33. Người nào ở đây có thể dứt bỏ các dục, sống hạnh du sĩ, không nhà, đã hoàn toàn cạn kiệt các dục và hiện hữu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[416] 34. Ai ở đời đoạn ái
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Ái hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.
34. Yo’ dha taṇhaṁ pahatvāna anāgāro paribbaje
Taṇhābhavaparikkhīṇaṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
34. Người nào ở đây có thể dứt bỏ tham ái, sống hạnh du sĩ, không nhà, đã hoàn toàn cạn kiệt tham ái và hiện hữu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[417] 35. Bỏ trói buộc loài người,
Vượt trói buộc cõi trời.
Giải thoát mọi buộc ràng,
Ta gọi Bà-la-môn.
35. Hitvā mānusakaṁ yogaṁ – dibbaṁ yogaṁ upaccagā
Sabbayogavisamyuttaṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
35. Người đã từ bỏ sự gắn bó thuộc cõi người, đã vượt lên sự gắn bó thuộc cõi trời, không bị ràng buộc với mọi sự gắn bó, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[418] 36. Bỏ điều ưa, điều ghét,
Mát lạnh, diệt sanh y
Bậc anh hùng chiến thắng,
Nhiếp phục mọi thế giới,
Ta gọi Bà-la-môn.
36. Hitvā ratiñ ca aratiñ ca – sītibhūtaṁ nirūpadhiṁ
Sabbalokābhibhuṁ virāṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.

[419] 37. Ai hiểu rõ hoàn toàn
Sanh tử các chúng sanh,
Không nhiễm, khéo vượt qua,
Sáng suốt chân giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn.
37. Cutiṁ yo vedi sattānaṁ – upapattiñ ca sabbaso
Asattaṁ sugataṁ buddhaṁ tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
37. Người nào đã hiểu biết sự chết và sự tái sanh của chúng sanh về mọi phương diện, không bám víu, đã đi đến nơi an lạc, đã được giác ngộ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[420] 38. Với ai, loài trời, người
Cùng với Càn thát bà,
Không biết chỗ thọ sanh
Lậu tận bậc La hán.
Ta gọi Bà-la-môn.
38. Yassa gatiṁ na jānanṛti – devā gandhabbamānusā
Khīṇāsavaṁ arahantaṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
38. Cảnh giới tái sanh của người nào mà chư Thiên, Càn-thát-bà, và loài người không biết được, người có lậu hoặc đã được cạn kiệt, là bậc A-la-hán, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[421] 39. Ai quá, hiện, vị lai
Không một sở hữu gì,
Không sở hữu không nắm,
Ta gọi Bà-la-môn.
39. Yassa pure ca pacchā ca – majjye ca natthi kiñcanaṁ
Akiñcanaṁ anādānaṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
39. Đối với người nào, phía trước (quá khứ), phía sau (vị lai), và phần giữa (hiện tại) không sở hữu gì, người không sở hữu gì, không nắm giữ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[422] 40. Bậc trâu chúa, thù thắng
Bậc anh hùng, đại sĩ,
Bậc chiến thắng, không nhiễm,
Bậc tẩy sạch, giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn.
40. Usabhaṁ pavaraṁ vīraṁ – mahesiṁ vijitāvinaṁ
Anejaṁ nahātakaṁ buddhaṁ tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ
40. Đấng nhân ngưu, bậc cao quý, bậc anh hùng, bậc đại ẩn sĩ, bậc chiến thắng, bậc không còn dục vọng, người đã rửa sạch (mọi nhiễm ô), đã được giác ngộ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

[423] 41. Ai biết được đời trước,
Thấy thiên giới, đọa xứ,
Ðạt được sanh diệt tận
Thắng trí, tự viên thành
Bậc mâu ni đạo sĩ.
Viên mãn mọi thành tựu
Ta gọi Bà-la-môn.
41. Pubbenivāsaṁ yo vedī – saggāpāyañ ca passati
Atho jātikkhayaṁ patto – abhiññā vosito muni
Sabbavositavosānaṁ – tam ahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
41. Người nào biết về kiếp sống trước, nhìn thấy cõi trời và đọa xứ, rồi đạt đến sự diệt trừ tái sanh, là bậc hiền trí, đã được hoàn hảo về thắng trí, có mọi sự hoàn hảo đã được hoàn hảo, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
