KINH PHÁP CÚ
1. PHẨM SONG ĐỐI - YAMAKA VAGGA
[01] 1. Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo.
1. Manopubbaṅgamā dhammā – manoseṭṭhā manomayā
Manasā ce paduṭṭhena – bhāsati vā karoti vā
Tato naṁ dukkhamanveti -cakkam’vā vahato padaṁ.
1. Các pháp (sở hữu tâm) có tâm là sự dẫn đầu, có tâm là chủ đạo, được tạo ra bởi tâm. Nếu (người nào) nói hay làm với tâm xấu xa, do điều ấy khổ đau đi theo người ấy ví như bánh xe (đi theo) bước chân của con vật đang kéo xe.
[02] 2. Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình.
2. Manopubbaṅgamā dhammā manoseṭṭhā manomyā
Manasā ce pasannena bhāsati vā karoti vā
Tato naṁ sukhamanveti – chāyā’va anapāyinī.
2. Các pháp (sở hữu tâm) có tâm là sự dẫn đầu, có tâm là chủ đạo, được tạo ra bởi tâm. Nếu (người nào) nói hay làm với tâm trong sạch, do điều ấy hạnh phúc đi theo người ấy ví như bóng có sự không lìa khỏi (hình).


[03] 3. Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi
Ai ôm hiềm hận ấy,
Hận thù không thể nguôi.
3. Akkocchi mam avadhi maṁ-ajini maṁ ahāsi me
Ye taṁ upanayhanti – veraṁ tesaṁ na sammati
3. Nó đã sỉ vả tôi, nó đã đánh đập tôi, nó đã chế ngự tôi, nó đã tước đoạt của tôi. Những người nào ấp ủ điều ấy, sự thù hận của những người ấy không được lặng yên.

[04] 4. Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi
Không ôm hiềm hận ấy,
Hận thù được tự nguôi.
4. Akkocchi maṁ avadhi maṁ ajini maṁ ahāsi me
Ye taṁ na upanayhanti veraṁ tesūpasammati
4. Nó đã sỉ vả tôi, nó đã đánh đập tôi, nó đã chế ngự tôi, nó đã tước đoạt của tôi. Những người nào không ấp ủ điều ấy, sự thù hận ở những người ấy được lặng yên.

[05] 5. Với hận diệt hận thù,
Ðời này không có được.
Không hận diệt hận thù,
Là định luật ngàn thu.
5. Na hi verena verāni – sammantī’dha kudācanaṁ
Averena ca sammanti – esa dhammo sanantano.
5. Ở thế gian này, các sự thù hận không bao giờ được lặng yên bởi sự hận thù, và chúng được lặng yên bởi sự không thù hận; điều này là quy luật cổ xưa.

[06] 6. Và người khác không biết,
Chúng ta đây bị hại.
Chỗ ấy, ai hiểu được
Tranh luận được lắng êm.
6. Pare ca na vijānanti –
mayamettha yamāmase
Ye ca tattha vijānanti –
tato sammanti medhagā.
6. Và những kẻ khác không nhận thức được, ở đây chúng ta nên tự kiềm chế. Còn những ai tại nơi ấy nhận thức được (điều ấy), nhờ thế các sự tranh chấp được lặng yên.

[07] 7. Ai sống nhìn tịnh tướng,
Không hộ trì các căn,
ăn uống thiếu tiết độ,
biếng nhác, chẳng tinh cần.
Ma uy hiếp kẻ ấy,
như cây yếu trước gió.
7. Subhānupassim viharantam – indriyesu asamvutam
Bhojanamhi amattaññum – kusītaṁ hīnavīriyaṁ
Taṁ ve pasahati māro – vāto rukkham’va dubbalaṁ.
7. Trong khi sống có sự quan sát về tịnh tướng, không thu thúc ở các giác quan, không biết chừng mực về vật thực, lười biếng, có sự tinh tấn thấp kém, Ma Vương quả nhiên ngự trị người ấy, ví như cơn gió (đè bẹp) thân cây yếu ớt.

[08] 8. Ai sống quán bất tịnh,
Khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ,
Có lòng tin, tinh cần,
Ma không uy hiếp được,
Như núi đá, trước gió.
8. Asubhānupassiṁ viharantaṁ indriyesu susaṁvutaṁ
Bhojanamhi ca mattaññuṁ -saddhaṁ āraddhavīriyaṁ
Taṁ ve nappasahati māro -vāto se lamva pabbattaṁ
8. Trong khi sống có sự quan sát về bất tịnh tướng, khéo thu thúc ở các giác quan, biết chừng mực về vật thực, có niềm tin, có sự ra sức tinh tấn, Ma Vương quả nhiên không ngự trị người ấy, ví như cơn gió (không đè bẹp được) ngọn núi đá.

[09] 9. Ai mặc áo cà sa. [1]
tâm chưa rời uế trược,
không tự chế, không thực,
không xứng áo cà sa
9. Anikkasāvo kāsāvaṁ – yo vatthaṁ paridahessati
Apeto damasaccena – na so kāsāvam arahati.
9. Kẻ nào có uế trược chưa lìa, sẽ khoác lên tấm vải ca-sa, (mà) bỏ bê việc rèn luyện và sự chân thật, kẻ ấy không xứng với y ca-sa.

[10] 10. Ai rời bỏ uế trược,
giới luật khéo nghiêm trì,
tự chế, sống chơn thực,
thật xứng áo cà sa.
10. Yo ca vantakasāv’ assa – sīlesu susamāhito
Upeto damasaccena – sa ve kāsāvam arahati.
10. Còn vị nào có uế trược đã được tẩy trừ, khéo định tĩnh trong các giới, gắn bó với việc rèn luyện và chân thật, người ấy quả nhiên xứng với y ca-sa.

[11] 11. Không chân, tưởng chân thật,
chân thật, thấy không chân:
chúng không đạt chân thật,
do tà tư, tà hạnh.
11. Asāre sāramatino –
Sāre cāsāradassino
Te sāraṁ nādhigacchanti –
Micchāsaṅkappagocarā.
11. Những người có quan niệm về điều vô ích là cốt lõi, và có nhận thức về điều cốt lõi là vô ích, những người ấy không đạt đến điều cốt lõi, có hành xứ là những tư tuy sai trái.

[12] 12. Chân thật, biết chân thật,
Không chân, biết không chân:
chúng đạt được chân thật,
do chánh tư, chánh hạnh.
12. Sāran ca sārato ñatvā -asārañ ca asārato
Te sāraṁ adhigacchanti – sammā saṅkappagoccarā.
12. Và sau khi biết được điều cốt lõi là cốt lõi, và điều vô ích là vô ích, những người ấy đạt đến điều cốt lõi, có hành xứ là những tư tuy đúng đắn.

[13] 13. Như mái nhà vụng lợp,
Mưa liền xâm nhập vào.
Cũng vậy tâm không tu,
Tham dục liền xâm nhập.
13. Yathā’gāraṁ ducchannaṁ – vuṭṭhi samativijjhati
Evaṁ abhāvitaṁ cittaṁ – rāgo samativijjhati.
13. Giống như mưa xuyên thủng ngôi nhà được lợp (mái) vụng về, tương tự như thế ấy luyến ái xuyên thủng tâm không tu tập.

[14] 14. Như ngôi nhà khéo lợp,
Mưa không xâm nhập vào.
Cũng vậy tâm khéo tu,
Tham dục không xâm nhập.
14. Yathā’gāraṁ succhannaṁ – vuṭṭhi na samativijjhati
Evaṁ subhāvitaṁ cittaṁ – rāgo na samativijjhati.
14. Giống như mưa không xuyên thủng ngôi nhà được lợp (mái) khéo léo, tương tự như thế ấy luyến ái không xuyên thủng tâm khéo được tu tập.

[15] 15. Nay sầu, đời sau sầu,
Kẻ ác, hai đời sầu;
Nó sầu, nó ưu não,
Thấy nghiệp uế mình làm.
15. Idha socati pecca socati
Pāpakārī ubhayattha socati
So socati so vihaññati disvā kammakiliṭṭham attano.
15. Kẻ làm ác sầu muộn ở đời này, sầu muộn sau khi chết, sầu muộn ở cả hai nơi. Sau khi nhìn thấy sự ô nhiễm ở việc làm của bản thân, kẻ ấy sầu muộn, kẻ ấy sầu khổ.

[16] 16. Nay vui, đời sau vui,
Làm phước, hai đời vui,
Nó vui, nó an vui,
Thấy nghiệp tịnh mình làm.
16. Idha modati pecca modati – katapuñño ubhayattha modati
So modati so pamodati – disvā kammavisuddhamattano.
16. Người đã làm việc phước thiện vui sướng ở đời này, vui sướng sau khi chết, vui sướng ở cả hai nơi. Sau khi nhìn thấy sự trong sạch ở việc làm của bản thân, người ấy vui sướng, người ấy thích thú.

[17] 17. Nay than, đời sau than,
Kẻ ác, hai đời than,
Nó than: ‘Ta làm ác’
Ðọa cõi dữ, than hơn.
17. Idha tappati pecca tappati – pāpakārī ubhayattha tappati
Pāpaṁ me katan ti tappati – bhiyyo tappati duggatiṁ gato.
17. Kẻ làm ác bị bứt rứt ở đời này, bị bứt rứt sau khi chết, bị bứt rứt ở cả hai nơi, bị bứt rứt (nghĩ rằng): ‘Ta đã làm việc ác,’ bị đi đến khổ cảnh (kẻ ấy) bị bứt rứt nhiều hơn nữa.

[18] 18. Nay sướng, đời sau sướng,
Làm phước, hai đời sướng.
Nó sướng: ‘Ta làm thiện’,
Sanh cõi lành, sướng hơn.
18. Idha nandati pecca nandati – katapuñño ubhayattha nandati
Puññaṁ me katan ti nandati – bhiyyo nandati suggatiṁ gato.
18. Người đã làm phước thiện hân hoan ở đời này, hân hoan sau khi chết, hân hoan ở cả hai nơi, hân hoan (nghĩ rằng): ‘Ta đã làm việc phước thiện,’ được đi đến nhàn cảnh (người ấy) hân hoan nhiều hơn nữa.

[19] 19. Nếu người nói nhiều kinh,
Không hành trì, phóng dật;
Như kẻ chăn bò người,
Không phần Sa môn hạnh.
19. Bahum pi ce sahitaṁ bhāsamāno – na takkaro hoti naro pamatto
Gopo’va gāvo gaṇayaṁ paresaṁ na bhāgavā sāmaññassa hoti.
19. Nếu là người dẫu đang nói nhiều về Kinh điển
mà là người bị xao lãng, không làm điều ấy,
được ví như kẻ chăn bò đang tính đếm đàn bò cho những người khác,
không có phần Sa-môn hạnh.

[20] 20. Dầu nói ít kinh điển,
Nhưng hành pháp, tùy pháp,
Từ bỏ tham, sân, si,
Tĩnh giác, tâm giải thoát,
Không chấp thủ hai đời,
Dự phần Sa môn hạnh.
20. Appam pi ce sahitaṁ bhāsamāno dhammassa hoti anudhamma cāri
Rāgañ ca dosañ ca pahāya mohaṁ sammappajāno suvimuttacitto
Anupādiyāno idha vā huraṁ vā sa bhāgavā sāmaññassa hoti.
20. Nếu là người dẫu đang nói ít về Kinh điển
mà có sự hành trì thuận pháp đối với Giáo Pháp,
sau khi dứt bỏ ái dục, sân hận và si mê,
có sự nhận thức đúng đắn, có tâm khéo được giải thoát,
trong khi không chấp thủ đời này hoặc đời kế tiếp,
người ấy được hưởng phần Sa-môn hạnh.

2. PHẨM KHÔNG XAO LÃNG - APPAMĀDA VAGGA
[21] 1. Không phóng dật, đường sống,
Phóng dật là đường chết.
Không phóng dật, không chết,
Phóng dật như chết rồi.
1. Appamādo amatapadaṁ -pamādo maccuno padaṁ
Appamattā na mīyanti – ye pamattā yathā matā.
1. Sự không xao lãng là đạo lộ Bất Tử (Niết Bàn), sự xao lãng là con đường đưa đến sự chết. Những người không xao lãng không chết, những người nào xao lãng giống như đã chết.

[22] 2. Biết rõ sai biệt ấy,
Người trí không phóng dật,
Hoan hỷ, không phóng dật,
An vui hạnh bậc Thánh.
2. Etaṁ visesato ñatvā -appamādamhi paṇḍitā
Appamāde pamodanti -ariyānaṁ gocare ratā.
2. Sau khi biết rõ điều ấy ở sự không xao lãng, thích thú trong hành xứ của các bậc Thánh, các bậc sáng suốt vui sướng ở sự không xao lãng.

[23] 3. Người hằng tu thiền định,
Thường kiên trì tinh tấn.
Bậc trí hưởng Niết Bàn,
Ðạt an tịnh vô thượng.
3. Te jhāyino sātatikā – niccam daḷhaparakkamā
Phusanti dhīrā nibbānaṁ -yogakkhemam anuttaraṁ.
3. Có thiền chứng, kiên trì, thường xuyên có sự nỗ lực vững chãi, sáng trí, các vị ấy đạt đến Niết Bàn, sự an toàn tối thượng đối với các trói buộc.

[24] 4. Nỗ lực, giữ chánh niệm,
Tịnh hạnh, hành thận trọng
Tự điều, sống theo pháp,
Ai sống không phóng dật,
Tiếng lành ngày tăng trưởng.
4. Uṭṭhānavato satimato – sucikammassa nisammakārino
Saññatassa ca dhammajīvino appamattassa yaso’bhivaḍḍhati.
4. Đối với người có sự tích cực, có niệm, có việc làm trong sạch, có hành động đã được cân nhắc, tự chế ngự, sống đúng pháp, không bị xao lãng, thì danh tiếng được tăng trưởng.

[25] 5. Nỗ lực, không phóng dật,
Tự điều, khéo chế ngự.
Bậc trí xây hòn đảo,
Nước lụt khó ngập tràn.
5. Uṭṭhānenappamādena – saññamena damena ca
Dīpaṁ kayirātha medhāvi -yaṁ ogho n’ābhikīrati.
5. Bằng sự tích cực, bằng sự không xao lãng, bằng sự tự chế ngự, và bằng sự rèn luyện, bậc thông minh nên xây dựng hòn đảo mà cơn lũ không tràn ngập được.

[26] 6. Chúng ngu si, thiếu trí,
Chuyên sống đời phóng dật.
Người trí, không phóng dật,
Như giữ tài sản quý.
6. Pamādamanuyuñjanti – bālā dummedhino janā
Appamādañ ca medhāvī -dhanaṁ seṭṭhaṁ’va rakkhati.
6. Những kẻ ngu, trí tồi, chiều theo sự xao lãng, còn vị thông minh gìn giữ sự không xao lãng như là (gìn giữ) tài sản quý nhất.

[27] 7. Chớ sống đời phóng dật,
Chớ mê say dục lạc.
Không phóng dật, thiền định,
Ðạt được an lạc lớn.
7. Ma pamadamanuyuñjetha -ma kamaratisanthavaṁ
Appamatto hi jhayanto -pappati vipulaṁ sukhaṁ
7. Chớ nên chiều theo sự xao lãng, chớ có (nghĩ đến) sự thân mật, thích thú trong các dục, bởi vì người không xao lãng trong khi tham thiền đạt được sự an lạc bao la.

[28] 8. Người trí dẹp phóng dật,
Với hạnh không phóng dật,
Leo lầu cao trí tuệ,
Không sầu, nhìn khổ sầu,
Bậc trí đứng núi cao,
Nhìn kẻ ngu, đất bằng.
8. Pamādaṁ appamādena – yadā nudati paṇḍito
Paññāpāsādamāruyha asoko sokiniṁ pajaṁ
Pabbataṭṭho’va bhummaṭṭhe dhīro bāle avekkhati.
8. Khi nào bậc sáng suốt xua đi sự xao lãng bằng không xao lãng, (khi ấy) sau khi leo lên tòa lâu đài trí tuệ, không còn sầu muộn, bậc sáng trí nhìn xuống đám người bị sầu muộn, ví như người đứng ở ngọn núi nhìn xuống những kẻ ngu dốt đứng ở mặt đất.

[29] 9. Tinh cần giữa phóng dật,
Tỉnh thức giữa quần mê.
Người trí như ngựa phi,
Bỏ sau con ngựa hèn.
9. Appamatto pamattesu – suttesu bahujāgaro
Abalassaṁ’va sīghasso – hitvā yāti sumedhaso.
9. Là người không xao lãng giữa những kẻ bị xao lãng, là người có nhiều sự tỉnh thức giữa những kẻ bị ngủ mê, bậc sáng trí từ bỏ (những kẻ ấy) và ra đi, ví như con tuấn mã ra đi bỏ lại con ngựa yếu đuối (ở phía sau).

[30] 10. Ðế Thích không phóng dật,
Ðạt ngôi vị Thiên chủ.
Không phóng dật, được khen ;
Phóng dật, thường bị trách.
10. Appamādena Maghavā – devānaṁ seṭṭhataṁ gato
Appamādaṁ pasaṁsanti -pamādo garahito sadā.
10. Nhờ sự không xao lãng, đức Trời Đế Thích (Maghavā) đi đến vị trí hàng đầu trong số chư Thiên. (Người người) ngợi ca sự không xao lãng; sự xao lãng luôn luôn bị quở trách.

[31] 11. Vui thích không phóng dật,
Tỷ kheo sợ phóng dật,
Bước tới như lửa hừng,
Thiêu kiết sử lớn nhỏ.
11. Appamādarato bhikkhu – pamāde bhayadassi vā
Saññojanaṁ aṇuṁ thūlaṁ dahaṁ aggī’va gacchati.
11. Vị tỳ khưu thích thú ở sự không xao lãng, nhìn thấy nỗi hiểm nguy ở sự xao lãng, ra đi ví như ngọn lửa đang thiêu đốt sự trói buộc nhỏ nhoi và to lớn.

[32] 12. Vui thích không phóng dật,
Tỷ kheo sợ phóng dật,
Không thể bị thối đọa,
Nhất định gần Niết Bàn.
12. Appamādarato bhikkhu – pamāde bhayadassi vā
Abhabbo parihānāya -nibbānass’eva santike.
12. Vị tỳ khưu thích thú ở sự không xao lãng, nhìn thấy nỗi hiểm nguy ở sự xao lãng, không thể đi đến thối đọa, (mà còn) ở rất gần Niết Bàn.

3. PHẨM TÂM - CITTA VAGGA
[33] 1. Tâm hoảng hốt giao động,
Khó hộ trì, khó nhiếp,
Người trí làm tâm thẳng,
Như thợ tên, làm tên.
1.Phandanaṁ capalaṁ cittaṁ durakkhaṁ dunnivārayaṁ
Ujuṁ karoti medhāvī – usukāro’ va tejanaṁ.
1. Tâm chao đảo, thay đổi, khó hộ trì, khó ngăn chặn, người thông minh làm cho tâm được ngay thẳng, ví như thợ làm tên uốn thẳng cây tên.

[34] 2. Như cá quăng lên bờ,
Vất ra ngoài thủy giới;
Tâm này vùng vẫy mạnh,
Hãy đoạn thế lực Ma.
2. Vārijo’va thale khitto – okamokata ubbhato
Pariphandati’midaṁ cittaṁ- māradheyyaṁ pahātave.
2. Ví như con cá bị vớt ra khỏi nước và bị ném ở trên đất liền, tâm này giãy giụa hầu thoát khỏi tầm khống chế của Ma Vương.

[35] 3. Khó nắm giữ, khinh động,
Theo các dục quay cuồng.
Lành thay, điều phục tâm;
Tâm điều, an lạc đến.
3. Dunniggahassa lahuno – yattha kāmanipātino
Cittassa damatho sādhu -cittaṁ dantaṁ sukhāvahaṁ.
3. Tâm khó kiểm soát, nhanh nhạy, có sự lao theo cảnh nó muốn. Tốt đẹp thay sự rèn luyện của tâm! Tâm đã được rèn luyện là nguồn đem lại niềm an lạc.

[36] 4. Tâm khó thấy, tế nhị,
Theo các dục quay cuồng.
Người trí phòng hộ tâm,
Tâm hộ, an lạc đến.
4. Sududdasaṁ sunipuṇaṁ – yatthakāmanipātinaṁ
Cittaṁ rakkhetha medhāvī- cittaṁ guttaṁ sukhāvahaṁ.
4. Tâm rất khó nhận biết, vô cùng vi tế, có sự lao theo cảnh nó muốn, người thông minh nên bảo vệ tâm. Tâm đã được hộ trì là nguồn đem lại niềm an lạc.

[37] 5. Chạy xa, sống một mình,
Không thân, ẩn hang sâu
Ai điều phục được tâm,
Thoát khỏi Ma trói buộc.
5. Dūraṅgamaṁ ekacaraṁ – asarīraṁ guhāsayaṁ –
Ye cittaṁ saññamessati – mokkhanti mārabandhanā.
5. Tâm có sự di chuyển đến nơi xa xôi, độc hành, không có thân xác, có chỗ trú ẩn là hang sâu (trái tim). Những ai sẽ thu thúc tâm thì (sẽ) được thoát khỏi sự trói buộc của Ma Vương.

[38] 6. Ai tâm không an trú,
Không biết chân diệu pháp,
Tịnh tín bị rúng động,
Trí tuệ không viên thành.
6. Anavaṭṭhitacittassa – saddhammaṁ avijānato
Pariplavapasādassa – paññā na paripūrati.
6. Đối với kẻ có tâm không được ổn định, không nhận thức được Chánh Pháp, có niềm tin bị dao động, thì tuệ không hoàn hảo.

[39] 7. Tâm không đầy tràn dục,
Tâm không (hận) công phá,
Ðoạn tuyệt mọi thiện ác,
Kẻ tỉnh không sợ hãi.
7. Anavassutacittassa – ananvāhatacetaso
Puññapāpapahīnassa – natthi jāgarato bhayaṁ.
7. Đối với người đang tỉnh thức, có tâm không bị nhiễm (bởi dục), có ý không bị công kích (bởi sân), đã dứt bỏ thiện và ác, thì không có sự sợ hãi.

[40] 8. Biết thân như đồ gốm,
Trú tâm như thành trì,
Chống Ma với gươm trí ;
Giữ chiến thắng không tham
8. Kumbhūpamaṁ kāyamimaṁ viditvā – nagarūpamaṁ cittamidaṁ thapetvā
Yodetha māraṁ paññāydhena jitañ ca rakkhe anivesano siyā.
8. Sau khi biết được thân này tương tợ chậu đất nung,
sau khi thiết lập tâm này tương tợ thành trì,
nên tấn công Ma Vương bằng vũ khí trí tuệ,
và nên bảo vệ điều đã chiến thắng, nên có sự không ngơi nghỉ.

[41] 9. Không bao lâu thân này,
Sẽ nằm dài trên đất,
Bị vất bỏ, vô thức,
Như khúc cây vô dụng.
9. Aciraṁ vat’ayaṁ kāyo – paṭhaviṁ adhisessati
Chuddho apetaviññāṇo niratthaṁ’va kaḷingaram.
9. Không bao lâu nữa, thân này quả nhiên sẽ nằm dài ở trên đất, bị liệng bỏ đi, tâm thức đã xa lìa, ví như khúc gỗ mục không còn sự lợi ích.

[42] 10. Kẻ thù hại kẻ thù,
Oan gia hại oan gia,
Không bằng tâm hướng tà, [5]
Gây ác cho tự thân.
10. Diso disaṁ yaṁ taṁ kayirā verī vā pana verinaṁ
Micchāpanihitaṁ cittaṁ – pāpiyo naṁ tato kare.
10. Tâm hướng đến sự sai trái có thể gây nên cho người ấy điều còn tồi tệ hơn so với việc mà kẻ địch có thể làm đối với kẻ địch, hoặc kẻ thù hằn đối với kẻ thù hằn.

[43] 11. Ðiều mẹ cha bà con,
Không có thể làm được,
Tâm hướng chánh làm được
Làm được tốt đẹp hơn.
11. Na taṁ mātā pitā kayirā – aññe vā pi ca ñātakā
Sammā panihitaṁ cittaṁ seyyaso naṁ tato kare.
11. Tâm hướng đến sự chân chánh có thể tạo ra cho người ấy điều còn tốt đẹp hơn so với việc mà mẹ cha hoặc luôn cả các thân quyến khác có thể làm cho người ấy.

3. PHẨM BÔNG HOA - PUPPHA VAGGA
[44] 1. Ai chinh phục đất này
Dạ ma, Thiên giới này?
Ai khéo giảng Pháp cú,
Như người khéo hái hoa?
1.Ko imaṁ pathaviṁ vijessati yamalokañ ca imaṁ sadevakaṁ
Ko dhammapadaṁ sudesitaṁ kusalo puppham’iva pacessati.
1. Ai sẽ thấu triệt trái đất này, và thế giới Dạ Ma, thế giới (nhân loại) này luôn cả chư Thiên?
Ai sẽ thu thập lời dạy về Giáo Pháp đã khéo được thuyết giảng, ví như người thiện xảo sẽ thu thập bông hoa?

[45] 2. Hữu học chinh phục đất,
Dạ ma, Thiên giới này.
Hữu học giảng Pháp cú,
Như người khéo hái hoa.
2. Sekho paṭhaviṁ vijessati yamalokañ ca imaṁ sadevakaṁ
Sekho dhammapadaṁ sudesitaṁ kusalo puppha’iva pacessati.
2. Vị Hữu Học sẽ thấu triệt trái đất này,
và thế giới Dạ Ma, thế giới (nhân loại) này luôn cả chư Thiên.
Vị Hữu Học sẽ thu thập lời dạy về Giáo Pháp đã khéo được thuyết giảng,
ví như người thiện xảo sẽ thu thập bông hoa.

[46] 3. Biết thân như bọt nước,
Ngộ thân là như huyễn,
Bẻ tên hoa của ma,
Vượt tầm mắt thần chết.
3. Pheṇūpamaṁ kāyamimaṁ viditvā – marīcidhammaṁ abhisambudhāno
Chetvāna mārassa papupphakāni – adassanaṁ maccurājassa acche.
3. Sau khi biết được thân này ví như bọt nước,
trong khi biết rõ nó có tính chất giả tạm,
nên chặt đứt những nụ hoa của Ma Vương
và vượt khỏi tầm nhìn của Thần Chết.

[47] 4. Người nhặt các loại hoa,
Ý đắm say, tham nhiễm,
Bị thần chết mang đi,
Như lụt trôi làng ngủ.
4. Pupphāni h’eva pacinamtaṁ
byāssattamanasaṁ naraṁ
Suttaṁ gāmaṁ mahogho’va maccu ādāya gacchati.
4. Thần Chết ra đi mang theo người có tâm ý bị đắm nhiễm đang thu thập chỉ mỗi các bông hoa, ví như cơn lũ lớn cuốn trôi ngôi làng đã ngủ say.

[48] 5. Người nhặt các loại hoa,
Ý đắm say tham nhiễm,
Các dục chưa thỏa mãn,
Ðã bị chết chinh phục.
5. Pupphāni h’eva pacinantaṁ – byāsattamanasaṁ naraṁ
Atittaṁ yeva kāmesu – antako kurute vasaṁ.
5. Thần Chết thể hiện quyền lực với người có tâm ý bị đắm nhiễm đang thu thập chỉ mỗi các bông hoa, nhưng chưa được thỏa mãn về các dục.

[49] 6. Như ong đến với hoa,
Không hại sắc và hương,
Che chở hoa, lấy nhụy.
Bậc Thánh đi vào làng.
6. Yathā,pi bhamaro pupphaṁ – vaṇṇagandhaṁ aheṭhayaṁ
Paleti rasam’ādāya – evaṁ gāme munī care.
6. Cũng giống như loài ong lấy nhụy rồi bay đi mà không gây tổn hại đến bông hoa, vẻ đẹp, và hương thơm (của nó), bậc hiền trí đi (khất thực) ở trong làng là tương tự như thế.

[50] 7. Không nên nhìn lỗi người,
Người làm hay không làm.
Nên nhìn tự chính mình.
Có làm hay không làm.
7. Na paresaṁ vilomāni – na paresaṁ katākataṁ
Attano’va avekkheya -katāni akatāni ca.
7. Không nên (soi mói) các việc sái quấy của những người khác, không nên (soi mói) việc đã làm hoặc chưa làm của họ, mà nên xem xét những việc đã làm và chưa làm của chính bản thân.

[51] 8. Như bông hoa tươi đẹp,
Có sắc nhưng không hương.
Cũng vậy, lời khéo nói,
Không làm, không kết quả.
8. Yathā’pi ruciraṁ pupphaṁ – vaṇṇavantaṁ agandhakaṁ
Evaṁ subhāsitā vācā – aphalā hoti akubbato.
8. Cũng giống như bông hoa xinh đẹp có sắc không hương, tương tự như vậy lời nói được khéo nói của người không thực hành thì không có kết quả.

[52] 9. Như bông hoa tươi đẹp,
Có sắc lại thêm hương;
Cũng vậy, lời khéo nói,
Có làm, có kết quả
9. Yātha’pi ruciram pupphaṁ – vaṇṇavantaṁ sagandhakaṁ
Evaṁ subhāsitā vācā – saphalā hoti sakubbato.
9. Cũng giống như bông hoa xinh đẹp có sắc có hương, tương tự như vậy lời nói được khéo nói của người có thực hành thì có kết quả.

[53] 10. Như từ một đống hoa,
Nhiều tràng hoa được làm.
Cũng vậy, thân sanh tử,
Phải làm nhiều việc lành.
10. Yathā’pi puppharāsimhā – kayirā mālāguṇe bahū
Evaṁ jātena maccena- kattabbaṁ kusalaṁ bahuṁ.
10. Cũng giống như từ đống bông hoa người ta có thể tạo thành nhiều loại tràng hoa, tương tự như thế nhiều việc thiện nên được làm bởi người đã được sanh ra (ở trên đời).

[54] 11. Hương các loại hoa thơm
Không ngược bay chiều gió
Nhưng hương người đức hạnh
Ngược gió khắp tung bay
Chỉ có bậc chân nhân
Tỏa khắp mọi phương trời.
11. Na pupphagandho paṭivātam eti – na candanaṁ tagaramallikā vā
Satañ ca gandho paṭivātam eti – sabbā disā sappuriso pavāti.
11. Hương thơm của bông hoa không bay ngược chiều gió, (hương thơm của) gỗ trầm, gỗ tagara, hoặc hoa nhài cũng không. Còn hương thơm của những người tốt bay ngược chiều gió, bậc chân nhân tỏa hương (thơm giới hạnh) tất cả các phương.

[55] 12. Hoa chiên đàn, già la,
Hoa sen, hoa vũ quý,
Giữa những hương hoa ấy,
Giới hương là vô thượng.
12. Candanaṁ tagaraṁ vā’pi – uppalaṁ atha vassikī
Etesaṁ gandhajātānaṁ -sīlagandho anuttaro.
12. Gỗ trầm, gỗ tagara, hoặc ngay cả hoa sen, rồi hoa nhài, trong số các loại có hương thơm này, hương thơm của giới là vô thượng.

[56] 13. Ít giá trị hương này,
Hương già la, chiên đàn;
Chỉ hương người đức hạnh,
Tối thượng tỏa Thiên giới.
13. Appamatto ayaṁ gandho – yā’yaṁ tagaracandanī
Yo ca sīlavataṁ gandho – vāti devesu uttamo.
13. Hương thơm này của gỗ tagara hay gỗ trầm có phẩm lượng ít ỏi, còn hương thơm của các bậc có giới hạnh thổi giữa chư Thiên là tối thượng.

[57] 14. Nhưng ai có giới hạnh,
An trú không phóng dật,
Chánh trí, chơn giải thoát,
Ác ma không thấy đường.
14. Tesaṁ sampannasīlānaṁ – appamādavihārinaṁ
Sammadannāvimuttānaṁ -1māro maggaṁ na vindati.
14. Đối với những vị có giới đã được thành tựu, đang sống không xao lãng, đã được giải thoát nhờ vào hiểu biết chân chánh, Ma Vương không tìm ra đạo lộ của những vị ấy.

[58] 15. Như giữa đống rác nhớp,
Quăng bỏ trên đường lớn,
Chỗ ấy hoa sen nở,
Thơm sạch, đẹp ý người.
15. Yathā sankāradhānasmiṁ – ujjhitasmiṁ mahāpathe
Padumaṁ tattha jāyetha – sucigandhaṁ manoramaṁ.
15. Giống như tại đống rác đã được quăng bỏ ở con đường lớn, tại nơi ấy hoa sen có thể sanh trưởng, có mùi thơm tinh khiết, làm thích ý.

[59] 16. Cũng vậy giữa quần sanh,
Uế nhiễm, mù, phàm tục,
Ðệ tử bậc Chánh Giác,
Sáng ngời với Tuệ Trí.
16. Evaṁ saṅkārabhūtesu – andhabhūte puthujjane
Atirocati paññāya -sammāsambudhasāvako.
16. Tương tự như thế, ở giữa các chúng sanh rác rưởi, ở giữa hạng phàm nhân có trạng thái tăm tối, vị Thinh Văn của đấng Chánh Đẳng Giác rực sáng với trí tuệ.
4. PHẨM KẺ NGU - BĀLA VAGGA
[60] 1. Ðêm dài cho kẻ thức,
Ðường dài cho kẻ mệt,
Luân hồi dài, kẻ ngu,
Không biết chơn diệu pháp.
1. Dīghā jāgarato ratti – dīghaṁ santassa yojanaṁ
Dīgho bālānaṁ samsāro -saddhammaṁ avijānataṁ.
1. Đêm là dài đối với người đang thức, một do-tuần là dài đối với người bị mệt mỏi, luân hồi là dài đối với những kẻ ngu không nhận biết Diệu Pháp.

[61] 2. Tìm không được bạn đường,
Hơn mình hay bằng mình,
Thà quyết sống một mình,
Không bè bạn kẻ ngu.
2. Carañ ce nādhigaccheyya – seyyaṁ sadisam attano
Ekacariyaṁ dalhaṁ kayirā natthi bāle sahāyatā.
2. Trong khi du hành, nếu không đạt được người giỏi hơn (hoặc) tương đương so với bản thân, nên vững chãi thực hiện việc du hành một mình; không có tình bạn hữu ở kẻ ngu.

[62] 3. Con tôi, tài sản tôi,
Người ngu sanh ưu não,
Tự ta, ta không có,
Con đâu, tài sản đâu.
3. Puttā m’atthi dhanaṁ m’atthi iti bālo vihaññati
Attā hi attano natthi kuto puttā kuto dhanam.
3. Tôi có các con trai, tôi có tài sản,’ (nghĩ thế) kẻ ngu bị sầu khổ. Chính bản thân của mình còn không có, từ đâu mà có các con trai, từ đâu mà có tài sản?

[63] 4. Người ngu nghĩ mình ngu,
Nhờ vậy thành có trí.
Người ngu tưởng có trí,
Thật xứng gọi chí ngu.
4. Yo bālo maññati bālyaṁ – paṇḍito vā’pi tena so
Bālo ca paṇḍitamānī – sa ve bālo’ti vuccati.
4. Người ngu nào biết được sự ngu dốt (của mình), do việc ấy người ấy cũng là sáng suốt. Còn kẻ ngu (nào) có sự tự hào là sáng suốt, chính kẻ ấy được gọi là ‘ngu.’

[64] 5. Người ngu, dầu trọn đời,
Thân cận người có trí,
Không biết được Chánh pháp,
Như muỗng với vị canh.
5. Yāvajīvam’pi ce bālo – paṇḍitaṁ payirupāsati
Na so dhammaṁ vijānāti – dabbī sūparasaṁ yathā.
5. Kẻ ngu nếu thân cận bậc trí cho đến trọn đời mà kẻ ấy không nhận thức được Giáo Pháp thì giống như cái muỗng (không biết được) vị của món xúp.

[65] 6. Người trí, dầu một khắc,
Thân cận người có trí,
Biết ngay chân diệu pháp,
Như lưỡi với vị canh.
6. Muhuttam api ce viññu -paṇḍitaṁ payirupāsati
Khippaṁ dhammaṁ vijānati Jivhā sūparasaṁ yathā.
6. Người hiểu biết nếu thân cận bậc trí dầu chỉ phút chốc mà mau chóng nhận thức được Giáo Pháp thì giống như cái lưỡi (biết được) vị của món xúp.

[66] 7. Người ngu si thiếu trí,
Tự ngã thành kẻ thù.
Làm các nghiệp không thiện,
Phải chịu quả đắng cay.
7. Caranti bālā dummedhā -amitten’eva attanā
Karontā pāpakaṁ kammaṁ -yaṁ hoti kaṭukapphalaṁ.
7. Trong khi làm nghiệp ác là việc làm có quả báo đắng cay, những kẻ ngu có trí tồi cư xử đối với bản thân như là (cư xử đối với) kẻ thù.

[67] 8. Nghiệp làm không chánh thiện,
Làm rồi sanh ăn năn,
Mặt nhuốm lệ, khóc than,
Lãnh chịu quả dị thục.
8. Na taṁ kammaṁ kataṁ sādhu -yaṁ katvā anutappati
Yassa assumukho rodaṁ vipākaṁ paṭisevati.
8. Việc gì sau khi làm mà bị hối hận, và nhận lãnh quả thành tựu của việc ấy với khuôn mặt đầy nước mắt, khóc lóc, thì việc làm ấy đã được làm một cách không tốt đẹp.

[68] 9. Và nghiệp làm chánh thiện,
Làm rồi không ăn năn,
Hoan hỷ, ý đẹp lòng,
Hưởng thọ quả dị thục.
9. Tañ ca kammaṁ kataṁ sādhu -yaṁ katvā nānutappati
Yassa patīto sumano -vipākaṁ paṭisevati.
9. Còn việc gì sau khi làm mà không bị hối hận, và nhận lãnh quả thành tựu của việc ấy được vừa lòng thích ý, thì việc làm ấy đã được làm một cách tốt đẹp.

[69] 10. Người ngu nghĩ là ngọt,
Khi ác chưa chín muồi;
Ác nghiệp chín muồi rồi,
Người ngu chịu khổ đau.
10. Madhū’va 1 maññatī bālo -yāva pāpaṁ na paccati
Yadā ca paccatī pāpaṁ -atha bālo dukkhaṁ nigacchati.
10. Cho đến khi nào điều ác chưa được chín muồi thì kẻ ngu còn nghĩ về nó như là mật ngọt, nhưng đến khi điều ác được chín muồi thì kẻ ngu đọa vào khổ đau.

[70] 11. Tháng tháng với ngọn cỏ,
Người ngu có ăn uống
Không bằng phần mười sáu
Người hiểu pháp hữu vi
11. Māse māse kusaggena – bālo bhuñjetha bhojanaṁ
Na so saṅkhatadhammānaṁ kalaṁ agghati soḷasiṁ.
11. Kẻ ngu có thể thọ dụng vật thực bằng đầu ngọn cỏ kusa theo từng tháng một, kẻ ấy không giá trị bằng một phần mười sáu so với những người đã hiểu được Giáo Pháp.

[71] 12. Nghiệp ác đã được làm,
Như sữa, không đông ngay,
Cháy ngầm theo kẻ ngu,
Như lửa tro che đậy.
12. Na hi pāpaṁ kataṁ kammaṁ sajju khīraṁ’va muccati
Dahantaṁ bālaṁ anveti -bhasmacchanno’va pāvako.
12. Ví như sữa không trở chua ngay lập tức, nghiệp ác đã làm không trổ quả liền liền, nó theo đuổi kẻ ngu, đốt nóng, ví như ngọn lửa đã được phủ tro.

[72] 13. Tự nó chịu bất hạnh,
Khi danh đến kẻ ngu.
Vận may bị tổn hại,
Ðầu nó bị nát tan.
13. Yāvadeva anatthāya -ñattaṁ bālassa jāyati
Hanti bālassa sukkaṁsaṁ -muddham assa vipātayaṁ.
13. Trạng thái được nổi tiếng sanh lên cho kẻ ngu cũng chỉ đem lại điều bất lợi, nó làm vỡ tan cái đầu (trí tuệ) và hủy hoại phần thánh thiện của kẻ ngu này.

[73] 14. Ưa danh không tương xứng,
Muốn ngồi trước tỷ kheo,
Ưa quyền tại tịnh xá,
Muốn mọi người lễ kính.
14. Asataṁ bhāvanam iccheyya purekkhārañ ca bhikkhusu
Avāsesu ca issariyaṁ – pūjā parakulesu ca.
14. (Kẻ ngu) có thể ước ao sự tiến bộ không có thực, sự nổi bật trong số các vị tỳ khưu, quyền hành ở các trú xứ, và sự cúng dường ở các gia đình khác.

[74] 15. Mong cả hai tăng, tục,
Nghĩ rằng (chính ta làm).
Trong mọi việc lớn nhỏ,
Phải theo mệnh lệnh ta ”
Người ngu nghĩ như vậy
Dục và mạn tăng trưởng
15. Mam eva kata maññantu -gihī pabbajitā ubho
Mam ev’ativasā assu -kiccākiccesu kismici
Iti bālassa saṅkappo – icchā māno ca vaḍḍhati.
15. ‘Mong sao cả hai hàng tại gia và xuất gia đều nghĩ rằng việc đã được làm bởi chính ta, mong sao họ đều chịu sự điều khiển của chính ta trong mọi công việc lớn nhỏ,’ suy nghĩ của kẻ ngu là thế ấy, lòng ham muốn và ngã mạn của kẻ ấy tăng trưởng.

[75] 16. Khác thay duyên thế lợi,
Khác thay đường Niết Bàn.
Tỷ kheo, đệ tử Phật,
Hãy như vậy thắng tri.
Chớ ưa thích cung kính,
Hãy tu hạnh viễn ly.
16. Aññā hi lābhūpanisā aññā nibbānagāminī
Evam etaṁ abhiññāya – bhikkhu Buddhassa sāvako
Sakkāraṁ nābhinandeyya -vivekam anubrūhaye.
16. Phương thức đưa đến lợi lộc là cái khác, còn đường lối đi đến Niết Bàn là cái khác, sau khi biết rõ điều này như thế, vị tỳ khưu đệ tử của đức Phật chớ nên thích thú sự tôn vinh, nên thực hành hạnh độc cư.

5. PHẨM BẬC SÁNG SUỐT - PANDITA VAGGA
[76] 1. Nếu thấy bậc hiền trí,
Chỉ lỗi và khiển trách,
Như chỉ chỗ chôn vàng
Hãy thân cận người trí!
Thân cận người như vậy,
Chỉ tốt hơn, không xấu.
1. Nidhīnaṁ’va pavattāraṁ -yaṁ passe vajjadassinaṁ
Niggayhavādiṁ medhāviṁ -tādisaṁ paṇḍitaṁ bhaje
Tādisaṁ bhajamānassa -seyyo hoti na pāpiyo.
1. Nên nhận biết người thông minh, có sự nhìn thấy được lỗi lầm, có lời nói khiển trách, như là người chỉ ra những của cải chôn giấu (cho mình); nên giao thiệp với người sáng suốt như thế ấy. Đối với người giao thiệp với vị như thế ấy, thì trở nên tốt hơn, không có xấu hơn.

[77] 2. Những người hay khuyên dạy,
Ngăn người khác làm ác,
Ðược người hiền kính yêu,
Bị người ác không thích.
2. Ovadeyyānusāseyya -asabbhā ca nivāraye
Sataṁ hi so piyo hoti -asataṁ hoti appiyo.
2. Người (nào) có thể giáo giới, có thể chỉ dạy, có thể ngăn chặn điều không tốt lành, thật vậy đối với những người tốt thì người ấy được yêu mến, đối với những người xấu thì không được yêu mến.
