KINH PHÁP CÚ
1. PHẨM SONG ĐỐI - YAMAKA VAGGA
[01] 1. Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo.
1. Manopubbaṅgamā dhammā – manoseṭṭhā manomayā
Manasā ce paduṭṭhena – bhāsati vā karoti vā
Tato naṁ dukkhamanveti -cakkam’vā vahato padaṁ.
1. Các pháp (sở hữu tâm) có tâm là sự dẫn đầu, có tâm là chủ đạo, được tạo ra bởi tâm. Nếu (người nào) nói hay làm với tâm xấu xa, do điều ấy khổ đau đi theo người ấy ví như bánh xe (đi theo) bước chân của con vật đang kéo xe.
[02] 2. Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình.
2. Manopubbaṅgamā dhammā manoseṭṭhā manomyā
Manasā ce pasannena bhāsati vā karoti vā
Tato naṁ sukhamanveti – chāyā’va anapāyinī.
2. Các pháp (sở hữu tâm) có tâm là sự dẫn đầu, có tâm là chủ đạo, được tạo ra bởi tâm. Nếu (người nào) nói hay làm với tâm trong sạch, do điều ấy hạnh phúc đi theo người ấy ví như bóng có sự không lìa khỏi (hình).
[03] 3. Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi
Ai ôm hiềm hận ấy,
Hận thù không thể nguôi.
3. Akkocchi mam avadhi maṁ-ajini maṁ ahāsi me
Ye taṁ upanayhanti – veraṁ tesaṁ na sammati
3. Nó đã sỉ vả tôi, nó đã đánh đập tôi, nó đã chế ngự tôi, nó đã tước đoạt của tôi. Những người nào ấp ủ điều ấy, sự thù hận của những người ấy không được lặng yên.
[04] 4. Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi
Không ôm hiềm hận ấy,
Hận thù được tự nguôi.
4. Akkocchi maṁ avadhi maṁ ajini maṁ ahāsi me
Ye taṁ na upanayhanti veraṁ tesūpasammati
4. Nó đã sỉ vả tôi, nó đã đánh đập tôi, nó đã chế ngự tôi, nó đã tước đoạt của tôi. Những người nào không ấp ủ điều ấy, sự thù hận ở những người ấy được lặng yên.
[05] 5. Với hận diệt hận thù,
Ðời này không có được.
Không hận diệt hận thù,
Là định luật ngàn thu.
5. Na hi verena verāni – sammantī’dha kudācanaṁ
Averena ca sammanti – esa dhammo sanantano.
5. Ở thế gian này, các sự thù hận không bao giờ được lặng yên bởi sự hận thù, và chúng được lặng yên bởi sự không thù hận; điều này là quy luật cổ xưa.
[06] 6. Và người khác không biết,
Chúng ta đây bị hại.
Chỗ ấy, ai hiểu được
Tranh luận được lắng êm.
6. Pare ca na vijānanti –
mayamettha yamāmase
Ye ca tattha vijānanti –
tato sammanti medhagā.
6. Và những kẻ khác không nhận thức được, ở đây chúng ta nên tự kiềm chế. Còn những ai tại nơi ấy nhận thức được (điều ấy), nhờ thế các sự tranh chấp được lặng yên.
[07] 7. Ai sống nhìn tịnh tướng,
Không hộ trì các căn,
ăn uống thiếu tiết độ,
biếng nhác, chẳng tinh cần.
Ma uy hiếp kẻ ấy,
như cây yếu trước gió.
7. Subhānupassim viharantam – indriyesu asamvutam
Bhojanamhi amattaññum – kusītaṁ hīnavīriyaṁ
Taṁ ve pasahati māro – vāto rukkham’va dubbalaṁ.
7. Trong khi sống có sự quan sát về tịnh tướng, không thu thúc ở các giác quan, không biết chừng mực về vật thực, lười biếng, có sự tinh tấn thấp kém, Ma Vương quả nhiên ngự trị người ấy, ví như cơn gió (đè bẹp) thân cây yếu ớt.
[08] 8. Ai sống quán bất tịnh,
Khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ,
Có lòng tin, tinh cần,
Ma không uy hiếp được,
Như núi đá, trước gió.
8. Asubhānupassiṁ viharantaṁ indriyesu susaṁvutaṁ
Bhojanamhi ca mattaññuṁ -saddhaṁ āraddhavīriyaṁ
Taṁ ve nappasahati māro -vāto se lamva pabbattaṁ
8. Trong khi sống có sự quan sát về bất tịnh tướng, khéo thu thúc ở các giác quan, biết chừng mực về vật thực, có niềm tin, có sự ra sức tinh tấn, Ma Vương quả nhiên không ngự trị người ấy, ví như cơn gió (không đè bẹp được) ngọn núi đá.
[09] 9. Ai mặc áo cà sa. [1]
tâm chưa rời uế trược,
không tự chế, không thực,
không xứng áo cà sa
9. Anikkasāvo kāsāvaṁ – yo vatthaṁ paridahessati
Apeto damasaccena – na so kāsāvam arahati.
9. Kẻ nào có uế trược chưa lìa, sẽ khoác lên tấm vải ca-sa, (mà) bỏ bê việc rèn luyện và sự chân thật, kẻ ấy không xứng với y ca-sa.
[10] 10. Ai rời bỏ uế trược,
giới luật khéo nghiêm trì,
tự chế, sống chơn thực,
thật xứng áo cà sa.
10. Yo ca vantakasāv’ assa – sīlesu susamāhito
Upeto damasaccena – sa ve kāsāvam arahati.
10. Còn vị nào có uế trược đã được tẩy trừ, khéo định tĩnh trong các giới, gắn bó với việc rèn luyện và chân thật, người ấy quả nhiên xứng với y ca-sa.
[11] 11. Không chân, tưởng chân thật,
chân thật, thấy không chân:
chúng không đạt chân thật,
do tà tư, tà hạnh.
11. Asāre sāramatino –
Sāre cāsāradassino
Te sāraṁ nādhigacchanti –
Micchāsaṅkappagocarā.
11. Những người có quan niệm về điều vô ích là cốt lõi, và có nhận thức về điều cốt lõi là vô ích, những người ấy không đạt đến điều cốt lõi, có hành xứ là những tư tuy sai trái.
[12] 12. Chân thật, biết chân thật,
Không chân, biết không chân:
chúng đạt được chân thật,
do chánh tư, chánh hạnh.
12. Sāran ca sārato ñatvā -asārañ ca asārato
Te sāraṁ adhigacchanti – sammā saṅkappagoccarā.
12. Và sau khi biết được điều cốt lõi là cốt lõi, và điều vô ích là vô ích, những người ấy đạt đến điều cốt lõi, có hành xứ là những tư tuy đúng đắn.
[13] 13. Như mái nhà vụng lợp,
Mưa liền xâm nhập vào.
Cũng vậy tâm không tu,
Tham dục liền xâm nhập.
13. Yathā’gāraṁ ducchannaṁ – vuṭṭhi samativijjhati
Evaṁ abhāvitaṁ cittaṁ – rāgo samativijjhati.
13. Giống như mưa xuyên thủng ngôi nhà được lợp (mái) vụng về, tương tự như thế ấy luyến ái xuyên thủng tâm không tu tập.
[14] 14. Như ngôi nhà khéo lợp,
Mưa không xâm nhập vào.
Cũng vậy tâm khéo tu,
Tham dục không xâm nhập.
14. Yathā’gāraṁ succhannaṁ – vuṭṭhi na samativijjhati
Evaṁ subhāvitaṁ cittaṁ – rāgo na samativijjhati.
14. Giống như mưa không xuyên thủng ngôi nhà được lợp (mái) khéo léo, tương tự như thế ấy luyến ái không xuyên thủng tâm khéo được tu tập.
[15] 15. Nay sầu, đời sau sầu,
Kẻ ác, hai đời sầu;
Nó sầu, nó ưu não,
Thấy nghiệp uế mình làm.
15. Idha socati pecca socati
Pāpakārī ubhayattha socati
So socati so vihaññati disvā kammakiliṭṭham attano.
15. Kẻ làm ác sầu muộn ở đời này, sầu muộn sau khi chết, sầu muộn ở cả hai nơi. Sau khi nhìn thấy sự ô nhiễm ở việc làm của bản thân, kẻ ấy sầu muộn, kẻ ấy sầu khổ.
[16] 16. Nay vui, đời sau vui,
Làm phước, hai đời vui,
Nó vui, nó an vui,
Thấy nghiệp tịnh mình làm.
16. Idha modati pecca modati – katapuñño ubhayattha modati
So modati so pamodati – disvā kammavisuddhamattano.
16. Người đã làm việc phước thiện vui sướng ở đời này, vui sướng sau khi chết, vui sướng ở cả hai nơi. Sau khi nhìn thấy sự trong sạch ở việc làm của bản thân, người ấy vui sướng, người ấy thích thú.
[17] 17. Nay than, đời sau than,
Kẻ ác, hai đời than,
Nó than: ‘Ta làm ác’
Ðọa cõi dữ, than hơn.
17. Idha tappati pecca tappati – pāpakārī ubhayattha tappati
Pāpaṁ me katan ti tappati – bhiyyo tappati duggatiṁ gato.
17. Kẻ làm ác bị bứt rứt ở đời này, bị bứt rứt sau khi chết, bị bứt rứt ở cả hai nơi, bị bứt rứt (nghĩ rằng): ‘Ta đã làm việc ác,’ bị đi đến khổ cảnh (kẻ ấy) bị bứt rứt nhiều hơn nữa.
[18] 18. Nay sướng, đời sau sướng,
Làm phước, hai đời sướng.
Nó sướng: ‘Ta làm thiện’,
Sanh cõi lành, sướng hơn.
18. Idha nandati pecca nandati – katapuñño ubhayattha nandati
Puññaṁ me katan ti nandati – bhiyyo nandati suggatiṁ gato.
18. Người đã làm phước thiện hân hoan ở đời này, hân hoan sau khi chết, hân hoan ở cả hai nơi, hân hoan (nghĩ rằng): ‘Ta đã làm việc phước thiện,’ được đi đến nhàn cảnh (người ấy) hân hoan nhiều hơn nữa.
[19] 19. Nếu người nói nhiều kinh,
Không hành trì, phóng dật;
Như kẻ chăn bò người,
Không phần Sa môn hạnh.
19. Bahum pi ce sahitaṁ bhāsamāno – na takkaro hoti naro pamatto
Gopo’va gāvo gaṇayaṁ paresaṁ na bhāgavā sāmaññassa hoti.
19. Nếu là người dẫu đang nói nhiều về Kinh điển
mà là người bị xao lãng, không làm điều ấy,
được ví như kẻ chăn bò đang tính đếm đàn bò cho những người khác,
không có phần Sa-môn hạnh.
[20] 20. Dầu nói ít kinh điển,
Nhưng hành pháp, tùy pháp,
Từ bỏ tham, sân, si,
Tĩnh giác, tâm giải thoát,
Không chấp thủ hai đời,
Dự phần Sa môn hạnh.
20. Appam pi ce sahitaṁ bhāsamāno dhammassa hoti anudhamma cāri
Rāgañ ca dosañ ca pahāya mohaṁ sammappajāno suvimuttacitto
Anupādiyāno idha vā huraṁ vā sa bhāgavā sāmaññassa hoti.
20. Nếu là người dẫu đang nói ít về Kinh điển
mà có sự hành trì thuận pháp đối với Giáo Pháp,
sau khi dứt bỏ ái dục, sân hận và si mê,
có sự nhận thức đúng đắn, có tâm khéo được giải thoát,
trong khi không chấp thủ đời này hoặc đời kế tiếp,
người ấy được hưởng phần Sa-môn hạnh.
2. PHẨM KHÔNG XAO LÃNG - APPAMĀDA VAGGA
[21] 1. Không phóng dật, đường sống,
Phóng dật là đường chết.
Không phóng dật, không chết,
Phóng dật như chết rồi.
1. Appamādo amatapadaṁ -pamādo maccuno padaṁ
Appamattā na mīyanti – ye pamattā yathā matā.
1. Sự không xao lãng là đạo lộ Bất Tử (Niết Bàn), sự xao lãng là con đường đưa đến sự chết. Những người không xao lãng không chết, những người nào xao lãng giống như đã chết.
[22] 2. Biết rõ sai biệt ấy,
Người trí không phóng dật,
Hoan hỷ, không phóng dật,
An vui hạnh bậc Thánh.
2. Etaṁ visesato ñatvā -appamādamhi paṇḍitā
Appamāde pamodanti -ariyānaṁ gocare ratā.
2. Sau khi biết rõ điều ấy ở sự không xao lãng, thích thú trong hành xứ của các bậc Thánh, các bậc sáng suốt vui sướng ở sự không xao lãng.
[23] 3. Người hằng tu thiền định,
Thường kiên trì tinh tấn.
Bậc trí hưởng Niết Bàn,
Ðạt an tịnh vô thượng.
3. Te jhāyino sātatikā – niccam daḷhaparakkamā
Phusanti dhīrā nibbānaṁ -yogakkhemam anuttaraṁ.
3. Có thiền chứng, kiên trì, thường xuyên có sự nỗ lực vững chãi, sáng trí, các vị ấy đạt đến Niết Bàn, sự an toàn tối thượng đối với các trói buộc.
[24] 4. Nỗ lực, giữ chánh niệm,
Tịnh hạnh, hành thận trọng
Tự điều, sống theo pháp,
Ai sống không phóng dật,
Tiếng lành ngày tăng trưởng.
4. Uṭṭhānavato satimato – sucikammassa nisammakārino
Saññatassa ca dhammajīvino appamattassa yaso’bhivaḍḍhati.
4. Đối với người có sự tích cực, có niệm, có việc làm trong sạch, có hành động đã được cân nhắc, tự chế ngự, sống đúng pháp, không bị xao lãng, thì danh tiếng được tăng trưởng.
[25] 5. Nỗ lực, không phóng dật,
Tự điều, khéo chế ngự.
Bậc trí xây hòn đảo,
Nước lụt khó ngập tràn.
5. Uṭṭhānenappamādena – saññamena damena ca
Dīpaṁ kayirātha medhāvi -yaṁ ogho n’ābhikīrati.
5. Bằng sự tích cực, bằng sự không xao lãng, bằng sự tự chế ngự, và bằng sự rèn luyện, bậc thông minh nên xây dựng hòn đảo mà cơn lũ không tràn ngập được.
[26] 6. Chúng ngu si, thiếu trí,
Chuyên sống đời phóng dật.
Người trí, không phóng dật,
Như giữ tài sản quý.
6. Pamādamanuyuñjanti – bālā dummedhino janā
Appamādañ ca medhāvī -dhanaṁ seṭṭhaṁ’va rakkhati.
6. Những kẻ ngu, trí tồi, chiều theo sự xao lãng, còn vị thông minh gìn giữ sự không xao lãng như là (gìn giữ) tài sản quý nhất.
[27] 7. Chớ sống đời phóng dật,
Chớ mê say dục lạc.
Không phóng dật, thiền định,
Ðạt được an lạc lớn.
7. Ma pamadamanuyuñjetha -ma kamaratisanthavaṁ
Appamatto hi jhayanto -pappati vipulaṁ sukhaṁ
7. Chớ nên chiều theo sự xao lãng, chớ có (nghĩ đến) sự thân mật, thích thú trong các dục, bởi vì người không xao lãng trong khi tham thiền đạt được sự an lạc bao la.
[28] 8. Người trí dẹp phóng dật,
Với hạnh không phóng dật,
Leo lầu cao trí tuệ,
Không sầu, nhìn khổ sầu,
Bậc trí đứng núi cao,
Nhìn kẻ ngu, đất bằng.
8. Pamādaṁ appamādena – yadā nudati paṇḍito
Paññāpāsādamāruyha asoko sokiniṁ pajaṁ
Pabbataṭṭho’va bhummaṭṭhe dhīro bāle avekkhati.
8. Khi nào bậc sáng suốt xua đi sự xao lãng bằng không xao lãng, (khi ấy) sau khi leo lên tòa lâu đài trí tuệ, không còn sầu muộn, bậc sáng trí nhìn xuống đám người bị sầu muộn, ví như người đứng ở ngọn núi nhìn xuống những kẻ ngu dốt đứng ở mặt đất.
[29] 9. Tinh cần giữa phóng dật,
Tỉnh thức giữa quần mê.
Người trí như ngựa phi,
Bỏ sau con ngựa hèn.
9. Appamatto pamattesu – suttesu bahujāgaro
Abalassaṁ’va sīghasso – hitvā yāti sumedhaso.
9. Là người không xao lãng giữa những kẻ bị xao lãng, là người có nhiều sự tỉnh thức giữa những kẻ bị ngủ mê, bậc sáng trí từ bỏ (những kẻ ấy) và ra đi, ví như con tuấn mã ra đi bỏ lại con ngựa yếu đuối (ở phía sau).
[30] 10. Ðế Thích không phóng dật,
Ðạt ngôi vị Thiên chủ.
Không phóng dật, được khen ;
Phóng dật, thường bị trách.
10. Appamādena Maghavā – devānaṁ seṭṭhataṁ gato
Appamādaṁ pasaṁsanti -pamādo garahito sadā.
10. Nhờ sự không xao lãng, đức Trời Đế Thích (Maghavā) đi đến vị trí hàng đầu trong số chư Thiên. (Người người) ngợi ca sự không xao lãng; sự xao lãng luôn luôn bị quở trách.
[31] 11. Vui thích không phóng dật,
Tỷ kheo sợ phóng dật,
Bước tới như lửa hừng,
Thiêu kiết sử lớn nhỏ.
11. Appamādarato bhikkhu – pamāde bhayadassi vā
Saññojanaṁ aṇuṁ thūlaṁ dahaṁ aggī’va gacchati.
11. Vị tỳ khưu thích thú ở sự không xao lãng, nhìn thấy nỗi hiểm nguy ở sự xao lãng, ra đi ví như ngọn lửa đang thiêu đốt sự trói buộc nhỏ nhoi và to lớn.
[32] 12. Vui thích không phóng dật,
Tỷ kheo sợ phóng dật,
Không thể bị thối đọa,
Nhất định gần Niết Bàn.
12. Appamādarato bhikkhu – pamāde bhayadassi vā
Abhabbo parihānāya -nibbānass’eva santike.
12. Vị tỳ khưu thích thú ở sự không xao lãng, nhìn thấy nỗi hiểm nguy ở sự xao lãng, không thể đi đến thối đọa, (mà còn) ở rất gần Niết Bàn.
3. PHẨM TÂM - CITTA VAGGA
[33] 1. Tâm hoảng hốt giao động,
Khó hộ trì, khó nhiếp,
Người trí làm tâm thẳng,
Như thợ tên, làm tên.
1.Phandanaṁ capalaṁ cittaṁ durakkhaṁ dunnivārayaṁ
Ujuṁ karoti medhāvī – usukāro’ va tejanaṁ.
1. Tâm chao đảo, thay đổi, khó hộ trì, khó ngăn chặn, người thông minh làm cho tâm được ngay thẳng, ví như thợ làm tên uốn thẳng cây tên.
[34] 2. Như cá quăng lên bờ,
Vất ra ngoài thủy giới;
Tâm này vùng vẫy mạnh,
Hãy đoạn thế lực Ma.
2. Vārijo’va thale khitto – okamokata ubbhato
Pariphandati’midaṁ cittaṁ- māradheyyaṁ pahātave.
2. Ví như con cá bị vớt ra khỏi nước và bị ném ở trên đất liền, tâm này giãy giụa hầu thoát khỏi tầm khống chế của Ma Vương.
[35] 3. Khó nắm giữ, khinh động,
Theo các dục quay cuồng.
Lành thay, điều phục tâm;
Tâm điều, an lạc đến.
3. Dunniggahassa lahuno – yattha kāmanipātino
Cittassa damatho sādhu -cittaṁ dantaṁ sukhāvahaṁ.
3. Tâm khó kiểm soát, nhanh nhạy, có sự lao theo cảnh nó muốn. Tốt đẹp thay sự rèn luyện của tâm! Tâm đã được rèn luyện là nguồn đem lại niềm an lạc.
[36] 4. Tâm khó thấy, tế nhị,
Theo các dục quay cuồng.
Người trí phòng hộ tâm,
Tâm hộ, an lạc đến.
4. Sududdasaṁ sunipuṇaṁ – yatthakāmanipātinaṁ
Cittaṁ rakkhetha medhāvī- cittaṁ guttaṁ sukhāvahaṁ.
4. Tâm rất khó nhận biết, vô cùng vi tế, có sự lao theo cảnh nó muốn, người thông minh nên bảo vệ tâm. Tâm đã được hộ trì là nguồn đem lại niềm an lạc.
[37] 5. Chạy xa, sống một mình,
Không thân, ẩn hang sâu
Ai điều phục được tâm,
Thoát khỏi Ma trói buộc.
5. Dūraṅgamaṁ ekacaraṁ – asarīraṁ guhāsayaṁ –
Ye cittaṁ saññamessati – mokkhanti mārabandhanā.
5. Tâm có sự di chuyển đến nơi xa xôi, độc hành, không có thân xác, có chỗ trú ẩn là hang sâu (trái tim). Những ai sẽ thu thúc tâm thì (sẽ) được thoát khỏi sự trói buộc của Ma Vương.
[38] 6. Ai tâm không an trú,
Không biết chân diệu pháp,
Tịnh tín bị rúng động,
Trí tuệ không viên thành.
6. Anavaṭṭhitacittassa – saddhammaṁ avijānato
Pariplavapasādassa – paññā na paripūrati.
6. Đối với kẻ có tâm không được ổn định, không nhận thức được Chánh Pháp, có niềm tin bị dao động, thì tuệ không hoàn hảo.
[39] 7. Tâm không đầy tràn dục,
Tâm không (hận) công phá,
Ðoạn tuyệt mọi thiện ác,
Kẻ tỉnh không sợ hãi.
7. Anavassutacittassa – ananvāhatacetaso
Puññapāpapahīnassa – natthi jāgarato bhayaṁ.
7. Đối với người đang tỉnh thức, có tâm không bị nhiễm (bởi dục), có ý không bị công kích (bởi sân), đã dứt bỏ thiện và ác, thì không có sự sợ hãi.
[40] 8. Biết thân như đồ gốm,
Trú tâm như thành trì,
Chống Ma với gươm trí ;
Giữ chiến thắng không tham
8. Kumbhūpamaṁ kāyamimaṁ viditvā – nagarūpamaṁ cittamidaṁ thapetvā
Yodetha māraṁ paññāydhena jitañ ca rakkhe anivesano siyā.
8. Sau khi biết được thân này tương tợ chậu đất nung,
sau khi thiết lập tâm này tương tợ thành trì,
nên tấn công Ma Vương bằng vũ khí trí tuệ,
và nên bảo vệ điều đã chiến thắng, nên có sự không ngơi nghỉ.
[41] 9. Không bao lâu thân này,
Sẽ nằm dài trên đất,
Bị vất bỏ, vô thức,
Như khúc cây vô dụng.
9. Aciraṁ vat’ayaṁ kāyo – paṭhaviṁ adhisessati
Chuddho apetaviññāṇo niratthaṁ’va kaḷingaram.
9. Không bao lâu nữa, thân này quả nhiên sẽ nằm dài ở trên đất, bị liệng bỏ đi, tâm thức đã xa lìa, ví như khúc gỗ mục không còn sự lợi ích.
[42] 10. Kẻ thù hại kẻ thù,
Oan gia hại oan gia,
Không bằng tâm hướng tà, [5]
Gây ác cho tự thân.
10. Diso disaṁ yaṁ taṁ kayirā verī vā pana verinaṁ
Micchāpanihitaṁ cittaṁ – pāpiyo naṁ tato kare.
10. Tâm hướng đến sự sai trái có thể gây nên cho người ấy điều còn tồi tệ hơn so với việc mà kẻ địch có thể làm đối với kẻ địch, hoặc kẻ thù hằn đối với kẻ thù hằn.
[43] 11. Ðiều mẹ cha bà con,
Không có thể làm được,
Tâm hướng chánh làm được
Làm được tốt đẹp hơn.
11. Na taṁ mātā pitā kayirā – aññe vā pi ca ñātakā
Sammā panihitaṁ cittaṁ seyyaso naṁ tato kare.
11. Tâm hướng đến sự chân chánh có thể tạo ra cho người ấy điều còn tốt đẹp hơn so với việc mà mẹ cha hoặc luôn cả các thân quyến khác có thể làm cho người ấy.
3. PHẨM BÔNG HOA - PUPPHA VAGGA
[44] 1. Ai chinh phục đất này
Dạ ma, Thiên giới này?
Ai khéo giảng Pháp cú,
Như người khéo hái hoa?
1.Ko imaṁ pathaviṁ vijessati yamalokañ ca imaṁ sadevakaṁ
Ko dhammapadaṁ sudesitaṁ kusalo puppham’iva pacessati.
1. Ai sẽ thấu triệt trái đất này, và thế giới Dạ Ma, thế giới (nhân loại) này luôn cả chư Thiên?
Ai sẽ thu thập lời dạy về Giáo Pháp đã khéo được thuyết giảng, ví như người thiện xảo sẽ thu thập bông hoa?
[45] 2. Hữu học chinh phục đất,
Dạ ma, Thiên giới này.
Hữu học giảng Pháp cú,
Như người khéo hái hoa.
2. Sekho paṭhaviṁ vijessati yamalokañ ca imaṁ sadevakaṁ
Sekho dhammapadaṁ sudesitaṁ kusalo puppha’iva pacessati.
2. Vị Hữu Học sẽ thấu triệt trái đất này,
và thế giới Dạ Ma, thế giới (nhân loại) này luôn cả chư Thiên.
Vị Hữu Học sẽ thu thập lời dạy về Giáo Pháp đã khéo được thuyết giảng,
ví như người thiện xảo sẽ thu thập bông hoa.
[46] 3. Biết thân như bọt nước,
Ngộ thân là như huyễn,
Bẻ tên hoa của ma,
Vượt tầm mắt thần chết.
3. Pheṇūpamaṁ kāyamimaṁ viditvā – marīcidhammaṁ abhisambudhāno
Chetvāna mārassa papupphakāni – adassanaṁ maccurājassa acche.
3. Sau khi biết được thân này ví như bọt nước,
trong khi biết rõ nó có tính chất giả tạm,
nên chặt đứt những nụ hoa của Ma Vương
và vượt khỏi tầm nhìn của Thần Chết.
[47] 4. Người nhặt các loại hoa,
Ý đắm say, tham nhiễm,
Bị thần chết mang đi,
Như lụt trôi làng ngủ.
4. Pupphāni h’eva pacinamtaṁ
byāssattamanasaṁ naraṁ
Suttaṁ gāmaṁ mahogho’va maccu ādāya gacchati.
4. Thần Chết ra đi mang theo người có tâm ý bị đắm nhiễm đang thu thập chỉ mỗi các bông hoa, ví như cơn lũ lớn cuốn trôi ngôi làng đã ngủ say.
[48] 5. Người nhặt các loại hoa,
Ý đắm say tham nhiễm,
Các dục chưa thỏa mãn,
Ðã bị chết chinh phục.
5. Pupphāni h’eva pacinantaṁ – byāsattamanasaṁ naraṁ
Atittaṁ yeva kāmesu – antako kurute vasaṁ.
5. Thần Chết thể hiện quyền lực với người có tâm ý bị đắm nhiễm đang thu thập chỉ mỗi các bông hoa, nhưng chưa được thỏa mãn về các dục.
[49] 6. Như ong đến với hoa,
Không hại sắc và hương,
Che chở hoa, lấy nhụy.
Bậc Thánh đi vào làng.
6. Yathā,pi bhamaro pupphaṁ – vaṇṇagandhaṁ aheṭhayaṁ
Paleti rasam’ādāya – evaṁ gāme munī care.
6. Cũng giống như loài ong lấy nhụy rồi bay đi mà không gây tổn hại đến bông hoa, vẻ đẹp, và hương thơm (của nó), bậc hiền trí đi (khất thực) ở trong làng là tương tự như thế.
[50] 7. Không nên nhìn lỗi người,
Người làm hay không làm.
Nên nhìn tự chính mình.
Có làm hay không làm.
7. Na paresaṁ vilomāni – na paresaṁ katākataṁ
Attano’va avekkheya -katāni akatāni ca.
7. Không nên (soi mói) các việc sái quấy của những người khác, không nên (soi mói) việc đã làm hoặc chưa làm của họ, mà nên xem xét những việc đã làm và chưa làm của chính bản thân.
[51] 8. Như bông hoa tươi đẹp,
Có sắc nhưng không hương.
Cũng vậy, lời khéo nói,
Không làm, không kết quả.
8. Yathā’pi ruciraṁ pupphaṁ – vaṇṇavantaṁ agandhakaṁ
Evaṁ subhāsitā vācā – aphalā hoti akubbato.
8. Cũng giống như bông hoa xinh đẹp có sắc không hương, tương tự như vậy lời nói được khéo nói của người không thực hành thì không có kết quả.
[52] 9. Như bông hoa tươi đẹp,
Có sắc lại thêm hương;
Cũng vậy, lời khéo nói,
Có làm, có kết quả
9. Yātha’pi ruciram pupphaṁ – vaṇṇavantaṁ sagandhakaṁ
Evaṁ subhāsitā vācā – saphalā hoti sakubbato.
9. Cũng giống như bông hoa xinh đẹp có sắc có hương, tương tự như vậy lời nói được khéo nói của người có thực hành thì có kết quả.
[53] 10. Như từ một đống hoa,
Nhiều tràng hoa được làm.
Cũng vậy, thân sanh tử,
Phải làm nhiều việc lành.
10. Yathā’pi puppharāsimhā – kayirā mālāguṇe bahū
Evaṁ jātena maccena- kattabbaṁ kusalaṁ bahuṁ.
10. Cũng giống như từ đống bông hoa người ta có thể tạo thành nhiều loại tràng hoa, tương tự như thế nhiều việc thiện nên được làm bởi người đã được sanh ra (ở trên đời).
[54] 11. Hương các loại hoa thơm
Không ngược bay chiều gió
Nhưng hương người đức hạnh
Ngược gió khắp tung bay
Chỉ có bậc chân nhân
Tỏa khắp mọi phương trời.
11. Na pupphagandho paṭivātam eti – na candanaṁ tagaramallikā vā
Satañ ca gandho paṭivātam eti – sabbā disā sappuriso pavāti.
11. Hương thơm của bông hoa không bay ngược chiều gió, (hương thơm của) gỗ trầm, gỗ tagara, hoặc hoa nhài cũng không. Còn hương thơm của những người tốt bay ngược chiều gió, bậc chân nhân tỏa hương (thơm giới hạnh) tất cả các phương.
[55] 12. Hoa chiên đàn, già la,
Hoa sen, hoa vũ quý,
Giữa những hương hoa ấy,
Giới hương là vô thượng.
12. Candanaṁ tagaraṁ vā’pi – uppalaṁ atha vassikī
Etesaṁ gandhajātānaṁ -sīlagandho anuttaro.
12. Gỗ trầm, gỗ tagara, hoặc ngay cả hoa sen, rồi hoa nhài, trong số các loại có hương thơm này, hương thơm của giới là vô thượng.
[56] 13. Ít giá trị hương này,
Hương già la, chiên đàn;
Chỉ hương người đức hạnh,
Tối thượng tỏa Thiên giới.
13. Appamatto ayaṁ gandho – yā’yaṁ tagaracandanī
Yo ca sīlavataṁ gandho – vāti devesu uttamo.
13. Hương thơm này của gỗ tagara hay gỗ trầm có phẩm lượng ít ỏi, còn hương thơm của các bậc có giới hạnh thổi giữa chư Thiên là tối thượng.
[57] 14. Nhưng ai có giới hạnh,
An trú không phóng dật,
Chánh trí, chơn giải thoát,
Ác ma không thấy đường.
14. Tesaṁ sampannasīlānaṁ – appamādavihārinaṁ
Sammadannāvimuttānaṁ -1māro maggaṁ na vindati.
14. Đối với những vị có giới đã được thành tựu, đang sống không xao lãng, đã được giải thoát nhờ vào hiểu biết chân chánh, Ma Vương không tìm ra đạo lộ của những vị ấy.
[58] 15. Như giữa đống rác nhớp,
Quăng bỏ trên đường lớn,
Chỗ ấy hoa sen nở,
Thơm sạch, đẹp ý người.
15. Yathā sankāradhānasmiṁ – ujjhitasmiṁ mahāpathe
Padumaṁ tattha jāyetha – sucigandhaṁ manoramaṁ.
15. Giống như tại đống rác đã được quăng bỏ ở con đường lớn, tại nơi ấy hoa sen có thể sanh trưởng, có mùi thơm tinh khiết, làm thích ý.
[59] 16. Cũng vậy giữa quần sanh,
Uế nhiễm, mù, phàm tục,
Ðệ tử bậc Chánh Giác,
Sáng ngời với Tuệ Trí.
16. Evaṁ saṅkārabhūtesu – andhabhūte puthujjane
Atirocati paññāya -sammāsambudhasāvako.
16. Tương tự như thế, ở giữa các chúng sanh rác rưởi, ở giữa hạng phàm nhân có trạng thái tăm tối, vị Thinh Văn của đấng Chánh Đẳng Giác rực sáng với trí tuệ.
4. PHẨM KẺ NGU - BĀLA VAGGA
[60] 1. Ðêm dài cho kẻ thức,
Ðường dài cho kẻ mệt,
Luân hồi dài, kẻ ngu,
Không biết chơn diệu pháp.
1. Dīghā jāgarato ratti – dīghaṁ santassa yojanaṁ
Dīgho bālānaṁ samsāro -saddhammaṁ avijānataṁ.
1. Đêm là dài đối với người đang thức, một do-tuần là dài đối với người bị mệt mỏi, luân hồi là dài đối với những kẻ ngu không nhận biết Diệu Pháp.
[61] 2. Tìm không được bạn đường,
Hơn mình hay bằng mình,
Thà quyết sống một mình,
Không bè bạn kẻ ngu.
2. Carañ ce nādhigaccheyya – seyyaṁ sadisam attano
Ekacariyaṁ dalhaṁ kayirā natthi bāle sahāyatā.
2. Trong khi du hành, nếu không đạt được người giỏi hơn (hoặc) tương đương so với bản thân, nên vững chãi thực hiện việc du hành một mình; không có tình bạn hữu ở kẻ ngu.
[62] 3. Con tôi, tài sản tôi,
Người ngu sanh ưu não,
Tự ta, ta không có,
Con đâu, tài sản đâu.
3. Puttā m’atthi dhanaṁ m’atthi iti bālo vihaññati
Attā hi attano natthi kuto puttā kuto dhanam.
3. Tôi có các con trai, tôi có tài sản,’ (nghĩ thế) kẻ ngu bị sầu khổ. Chính bản thân của mình còn không có, từ đâu mà có các con trai, từ đâu mà có tài sản?
[63] 4. Người ngu nghĩ mình ngu,
Nhờ vậy thành có trí.
Người ngu tưởng có trí,
Thật xứng gọi chí ngu.
4. Yo bālo maññati bālyaṁ – paṇḍito vā’pi tena so
Bālo ca paṇḍitamānī – sa ve bālo’ti vuccati.
4. Người ngu nào biết được sự ngu dốt (của mình), do việc ấy người ấy cũng là sáng suốt. Còn kẻ ngu (nào) có sự tự hào là sáng suốt, chính kẻ ấy được gọi là ‘ngu.’
[64] 5. Người ngu, dầu trọn đời,
Thân cận người có trí,
Không biết được Chánh pháp,
Như muỗng với vị canh.
5. Yāvajīvam’pi ce bālo – paṇḍitaṁ payirupāsati
Na so dhammaṁ vijānāti – dabbī sūparasaṁ yathā.
5. Kẻ ngu nếu thân cận bậc trí cho đến trọn đời mà kẻ ấy không nhận thức được Giáo Pháp thì giống như cái muỗng (không biết được) vị của món xúp.
[65] 6. Người trí, dầu một khắc,
Thân cận người có trí,
Biết ngay chân diệu pháp,
Như lưỡi với vị canh.
6. Muhuttam api ce viññu -paṇḍitaṁ payirupāsati
Khippaṁ dhammaṁ vijānati Jivhā sūparasaṁ yathā.
6. Người hiểu biết nếu thân cận bậc trí dầu chỉ phút chốc mà mau chóng nhận thức được Giáo Pháp thì giống như cái lưỡi (biết được) vị của món xúp.
[66] 7. Người ngu si thiếu trí,
Tự ngã thành kẻ thù.
Làm các nghiệp không thiện,
Phải chịu quả đắng cay.
7. Caranti bālā dummedhā -amitten’eva attanā
Karontā pāpakaṁ kammaṁ -yaṁ hoti kaṭukapphalaṁ.
7. Trong khi làm nghiệp ác là việc làm có quả báo đắng cay, những kẻ ngu có trí tồi cư xử đối với bản thân như là (cư xử đối với) kẻ thù.
[67] 8. Nghiệp làm không chánh thiện,
Làm rồi sanh ăn năn,
Mặt nhuốm lệ, khóc than,
Lãnh chịu quả dị thục.
8. Na taṁ kammaṁ kataṁ sādhu -yaṁ katvā anutappati
Yassa assumukho rodaṁ vipākaṁ paṭisevati.
8. Việc gì sau khi làm mà bị hối hận, và nhận lãnh quả thành tựu của việc ấy với khuôn mặt đầy nước mắt, khóc lóc, thì việc làm ấy đã được làm một cách không tốt đẹp.
[68] 9. Và nghiệp làm chánh thiện,
Làm rồi không ăn năn,
Hoan hỷ, ý đẹp lòng,
Hưởng thọ quả dị thục.
9. Tañ ca kammaṁ kataṁ sādhu -yaṁ katvā nānutappati
Yassa patīto sumano -vipākaṁ paṭisevati.
9. Còn việc gì sau khi làm mà không bị hối hận, và nhận lãnh quả thành tựu của việc ấy được vừa lòng thích ý, thì việc làm ấy đã được làm một cách tốt đẹp.
[69] 10. Người ngu nghĩ là ngọt,
Khi ác chưa chín muồi;
Ác nghiệp chín muồi rồi,
Người ngu chịu khổ đau.
10. Madhū’va 1 maññatī bālo -yāva pāpaṁ na paccati
Yadā ca paccatī pāpaṁ -atha bālo dukkhaṁ nigacchati.
10. Cho đến khi nào điều ác chưa được chín muồi thì kẻ ngu còn nghĩ về nó như là mật ngọt, nhưng đến khi điều ác được chín muồi thì kẻ ngu đọa vào khổ đau.
[70] 11. Tháng tháng với ngọn cỏ,
Người ngu có ăn uống
Không bằng phần mười sáu
Người hiểu pháp hữu vi
11. Māse māse kusaggena – bālo bhuñjetha bhojanaṁ
Na so saṅkhatadhammānaṁ kalaṁ agghati soḷasiṁ.
11. Kẻ ngu có thể thọ dụng vật thực bằng đầu ngọn cỏ kusa theo từng tháng một, kẻ ấy không giá trị bằng một phần mười sáu so với những người đã hiểu được Giáo Pháp.
[71] 12. Nghiệp ác đã được làm,
Như sữa, không đông ngay,
Cháy ngầm theo kẻ ngu,
Như lửa tro che đậy.
12. Na hi pāpaṁ kataṁ kammaṁ sajju khīraṁ’va muccati
Dahantaṁ bālaṁ anveti -bhasmacchanno’va pāvako.
12. Ví như sữa không trở chua ngay lập tức, nghiệp ác đã làm không trổ quả liền liền, nó theo đuổi kẻ ngu, đốt nóng, ví như ngọn lửa đã được phủ tro.
[72] 13. Tự nó chịu bất hạnh,
Khi danh đến kẻ ngu.
Vận may bị tổn hại,
Ðầu nó bị nát tan.
13. Yāvadeva anatthāya -ñattaṁ bālassa jāyati
Hanti bālassa sukkaṁsaṁ -muddham assa vipātayaṁ.
13. Trạng thái được nổi tiếng sanh lên cho kẻ ngu cũng chỉ đem lại điều bất lợi, nó làm vỡ tan cái đầu (trí tuệ) và hủy hoại phần thánh thiện của kẻ ngu này.
[73] 14. Ưa danh không tương xứng,
Muốn ngồi trước tỷ kheo,
Ưa quyền tại tịnh xá,
Muốn mọi người lễ kính.
14. Asataṁ bhāvanam iccheyya purekkhārañ ca bhikkhusu
Avāsesu ca issariyaṁ – pūjā parakulesu ca.
14. (Kẻ ngu) có thể ước ao sự tiến bộ không có thực, sự nổi bật trong số các vị tỳ khưu, quyền hành ở các trú xứ, và sự cúng dường ở các gia đình khác.
[74] 15. Mong cả hai tăng, tục,
Nghĩ rằng (chính ta làm).
Trong mọi việc lớn nhỏ,
Phải theo mệnh lệnh ta ”
Người ngu nghĩ như vậy
Dục và mạn tăng trưởng
15. Mam eva kata maññantu -gihī pabbajitā ubho
Mam ev’ativasā assu -kiccākiccesu kismici
Iti bālassa saṅkappo – icchā māno ca vaḍḍhati.
15. ‘Mong sao cả hai hàng tại gia và xuất gia đều nghĩ rằng việc đã được làm bởi chính ta, mong sao họ đều chịu sự điều khiển của chính ta trong mọi công việc lớn nhỏ,’ suy nghĩ của kẻ ngu là thế ấy, lòng ham muốn và ngã mạn của kẻ ấy tăng trưởng.
[75] 16. Khác thay duyên thế lợi,
Khác thay đường Niết Bàn.
Tỷ kheo, đệ tử Phật,
Hãy như vậy thắng tri.
Chớ ưa thích cung kính,
Hãy tu hạnh viễn ly.
16. Aññā hi lābhūpanisā aññā nibbānagāminī
Evam etaṁ abhiññāya – bhikkhu Buddhassa sāvako
Sakkāraṁ nābhinandeyya -vivekam anubrūhaye.
16. Phương thức đưa đến lợi lộc là cái khác, còn đường lối đi đến Niết Bàn là cái khác, sau khi biết rõ điều này như thế, vị tỳ khưu đệ tử của đức Phật chớ nên thích thú sự tôn vinh, nên thực hành hạnh độc cư.
5. PHẨM BẬC SÁNG SUỐT - PANDITA VAGGA
[76] 1. Nếu thấy bậc hiền trí,
Chỉ lỗi và khiển trách,
Như chỉ chỗ chôn vàng
Hãy thân cận người trí!
Thân cận người như vậy,
Chỉ tốt hơn, không xấu.
1. Nidhīnaṁ’va pavattāraṁ -yaṁ passe vajjadassinaṁ
Niggayhavādiṁ medhāviṁ -tādisaṁ paṇḍitaṁ bhaje
Tādisaṁ bhajamānassa -seyyo hoti na pāpiyo.
1. Nên nhận biết người thông minh, có sự nhìn thấy được lỗi lầm, có lời nói khiển trách, như là người chỉ ra những của cải chôn giấu (cho mình); nên giao thiệp với người sáng suốt như thế ấy. Đối với người giao thiệp với vị như thế ấy, thì trở nên tốt hơn, không có xấu hơn.
[77] 2. Những người hay khuyên dạy,
Ngăn người khác làm ác,
Ðược người hiền kính yêu,
Bị người ác không thích.
2. Ovadeyyānusāseyya -asabbhā ca nivāraye
Sataṁ hi so piyo hoti -asataṁ hoti appiyo.
2. Người (nào) có thể giáo giới, có thể chỉ dạy, có thể ngăn chặn điều không tốt lành, thật vậy đối với những người tốt thì người ấy được yêu mến, đối với những người xấu thì không được yêu mến.
[78] 3. Chớ thân với bạn ác,
Chớ thân kẻ tiểu nhân.
Hãy thân người bạn lành,
Hãy thân bậc thượng nhân.
3. Na bhaje pāpake mitte – na bhaje purisādhame
Bhajetha mitte kalyāṇe -bhajetha purisuttame.
3. Không nên giao thiệp với những bạn xấu, không nên giao thiệp với những người đê tiện. Nên giao thiệp với những người bạn lành, nên giao thiệp với những người cao thượng.
[79] 4. Pháp hỷ đem an lạc,
Với tâm tư thuần tịnh;
Người trí thường hoan hỷ,
Với pháp bậc Thánh thuyết.
4. Dhammapīti sukkaṁ seti -vippasannena cetasā
Ariyappavedite dhamme -sadā ramati paṇḍito.
4. Người có sự hoan hỷ trong Giáo Pháp ngủ một cách an lạc với tâm ý thanh tịnh. Người sáng suốt luôn luôn hứng thú trong Giáo Pháp đã được các bậc Thánh tuyên thuyết.
[80] 5. Người trị thủy dẫn nước,
Kẻ làm tên nắn tên,
Người thợ mộc uốn gỗ,
Bậc trí nhiếp tự thân.
5. Udakaṁ hi nayanti nettikā -usukārā namayanti tejanaṁ
Dāruṁ namayanti tacchakā -attānaṁ damayanti paṇḍitā. .
5. Thật vậy, những người đào kênh dẫn nước, những thợ làm tên uốn nắn cây tên, những người thợ mộc tạo dáng thanh gỗ, những người sáng suốt rèn luyện bản thân.
[81] 6. Như đá tảng kiên cố,
Không gió nào giao động,
Cũng vậy, giữa khen chê,
Người trí không giao động.
6. Selo yathā ekaghano – vātena na samīrati
Evaṁ nindāpasaṁsāsu – na samiñjanti paṇḍitā.
6. Giống như tảng đá rắn chắc không bị lay động bởi gió, tương tự như thế các bậc sáng suốt không dao động ở các sự chê khen.
[82] 7. Như hồ nước sâu thẳm,
Trong sáng, không khuấy đục,
Cũng vậy, nghe chánh pháp,
Người trí hưởng tịnh lạc.
7. Yathā’pi rahado gambhīro -vippasanno anāvilo
Evaṁ dhammāni sutvāna -vippasīdanti paṇḍitā.
7. Cũng giống như hồ nước sâu, trong sạch, không bị vẩn đục, tương tự như thế, sau khi lắng nghe (các lời giảng về) Giáo Pháp các bậc sáng suốt được an tịnh.
[83] 8. Người hiền bỏ tất cả,
Người lành không bàn dục,
Dầu cảm thọ lạc khổ,
Bậc trí không vui buồn.
8. Sabbattha ve sappurisā cajanti na kāmakāmā lapayanti santo
Sukhena phuṭṭhā athavā dukhena na uccāvacaṁ paṇḍitā dassayanti.
8. Thật vậy, các bậc chân nhân từ bỏ mọi thứ, các bậc đạo đức không đề cập đến các ước muốn về dục lạc.
Bị xúc chạm bởi hạnh phúc hay bởi khổ đau, các bậc sáng suốt không tỏ ra phấn khởi hay chán nản.
[84] 9. Không vì mình, vì người.
Không cầu được con cái,
Không tài sản quốc độ,
Không cầu mình thành tựu,
Với việc làm phi pháp.
Vị ấy thật trì giới,
Có trí tuệ, đúng pháp.
9. Na attahetu na parassa hetu – na puttamicche na dhanaṁ na ratthaṁ
Na iccheyya adhammena samiddhim attano – sa sīlavā paññavā dhammiko siyā.
9. Người không vì lý do của bản thân, không vì lý do của kẻ khác,
không ao ước con trai, không ao ước tài sản, không ao ước quốc độ,
không mong muốn sự thành tựu cho bản thân một cách sái quấy,
người ấy là người chân chánh, có giới hạnh, có trí tuệ.
[85] 10. Ít người giữa nhân loại,
Ðến được bờ bên kia
Còn số người còn lại,
Xuôi ngược chạy bờ này.
9. Appakā te manussesu – ye janā pāragāmino
Athāyaṁ itarā pajā -tīramevānudhāvati.
10. Ở loài người, những người có sự đi đến bờ kia là ít ỏi, trái lại những người khác chỉ chạy dọc theo bờ (bên này).
[86] 11. Những ai hành trì pháp,
Theo chánh pháp khéo dạy,
Sẽ đến bờ bên kia,
Vượt ma lực khó thoát.
11. Ye ca kho sammadakkhāte -dhamme dhammānuvattino
Te janā pāramessanti -maccudheyyaṁ suduttaraṁ.
11. Và những người nào, khi pháp đã được tuyên thuyết đúng đắn, có sự hành trì theo pháp, những người ấy sẽ đi đến bờ kia, (sau khi vượt qua) lãnh vực của Ma Vương rất khó vượt qua.
[87] 12. Kẻ trí bỏ pháp đen,
Tu tập theo pháp trắng.
Bỏ nhà, sống không nhà,
Sống viễn ly khổ lạc.
12. Kaṇhaṁ dhammaṁ vippahāya – sukkaṁ bhāvetha paṇḍito
Okā anokaṁ āgamma – viveke yattha dūramaṁ.
12. Bậc sáng suốt, sau khi lìa bỏ pháp đen, nên phát triển pháp trắng, sau khi từ nhà đi đến trạng thái không nhà, ở chỗ tách biệt là nơi khó có sự thích thú.
[88] 13. Hãy cầu vui Niết Bàn,
Bỏ dục, không sở hữu,
Kẻ trí tự rửa sạch,
Cấu uế từ nội tâm.
13. Tatrābhiratim iccheyya -hitvā kāme akiñcano
Pariyodapeyya attānaṁ -cittaklesehi paṇḍito.
13. Sau khi từ bỏ các dục, không còn có vật gì, vị sáng suốt nên mong mỏi sự thỏa thích ở nơi ấy, nên thanh lọc bản thân khỏi các điều ô nhiễm của tâm.
[89] 14. Những ai với chánh tâm,
Khéo tu tập giác chi,
Từ bỏ mọi ái nhiễm,
Hoan hỷ không chấp thủ.
Không lậu hoặc, sáng chói,
Sống tịch tịnh ở đời.
14. Yesaṁ sambodhiaṅgesu sammā cittaṁ subhāvitaṁ
Ādānapaṭinissagge -anupādāya ye ratā
Khīṇāsavā jutīmanto – te loke parinibbutā.
14. Những vị nào có tâm đã khéo được tu tập ở các chi phần đưa đến Giác Ngộ, được thích thú trong việc xả bỏ các sự bám víu, không còn chấp thủ, những vị ấy có các lậu hoặc đã được cạn kiệt, có sự chói sáng, đã đạt Niết Bàn ở thế gian.
7. PHẨM A-LA-HÁN - ARAHANTA VAGGA
[90] 1. Ðích đã đến, không sầu,
Giải thoát ngoài tất cả,
Ðoạn trừ mọi buộc ràng,
Vị ấy không nhiệt não.
1. Gataddhino visokassa -vippamuttassa sabbadhi
Sabbaganthappahīnassa -pariḷāho na vijjati.
1. Đối với người đã trải qua cuộc hành trình, không còn sầu muộn, đã được giải thoát về mọi phương diện, đã dứt bỏ mọi trói buộc, sự bực bội là không được biết đến.
[91] 2. Tự sách tấn, chánh niệm,
Không thích cư xá nào,
Như ngỗng trời rời ao,
Bỏ sau mọi trú ẩn.
2. Uyyunjanti satimanto –
na nikete ramanti te
Hamsa ûva pallalaṁ hitvā –
okaṁ okaṁ jahanti te.
2. Các vị nỗ lực, có niệm, các vị ấy không thích thú về chỗ ở. Ví như những con thiên nga từ bỏ hồ nước, các vị ấy từ bỏ mọi trú xứ.
[92] 3. Tài sản không chất chứa,
Ăn uống biết liễu tri,
Tự tại trong hành xứ,
“Không vô tướng, giải thoát, ”
Như chim giữa hư không,
Hướng chúng đi khó tìm.
3. Yesaṁ sannicayyo natthi -ye pariññātabhojanā
Suññato animitto ca – vimakkho yassa gocaro
Ākāse ûva sakuntānaṁ – gati tesaṁ durannayā.
3. Các vị nào không có sự tích lũy, đã hiểu biết toàn diện về vật thực, có không tánh và vô tướng giải thoát là hành xứ của họ, lộ trình của các vị ấy là khó theo dõi, ví như đường bay của những con chim ở trên không trung.
[93] 4. Ai lậu hoặc đoạn sạch,
Ăn uống không tham đắm,
Tự tại trong hành xứ,
“Không, vô tướng giải thoát. ”
Như chim giữa hư không,
Dấu chân thật khó tìm.
4. Yassāsavā parikkhīṇā – āhāre ca anissito
Suññato animitto ca – vimokkho yassa gocaro
Ākāse’va sakuntānaṁ – padaṁ tassa durannayaṁ.
4. Vị nào có các lậu hoặc đã được hoàn toàn cạn kiệt, và không bị lệ thuộc về vật thực, có không tánh và vô tướng giải thoát là hành xứ của mình, vết chân của vị ấy là khó theo dõi, ví như đường bay của những con chim ở trên không trung.
[94] 5. Ai nhiếp phục các căn,
Như đánh xe điều ngự,
Mạn trừ, lậu hoặc dứt,
Người vậy, Chư Thiên mến.
5. Yass’indriyāni samathaṁ gatāni – assā yuthā sārathinā sudantā
Pahīnamānassa anāsavassa – devā’pi tassa pihayanti tādino.
5. Vị nào có các giác quan đã đi đến sự yên lặng, giống như những con ngựa đã khéo được huấn luyện bởi người đánh xe, có ngã mạn đã được dứt bỏ, không còn lậu hoặc, ngay cả chư Thiên cũng yêu mến vị có đức hạnh như thế ấy.
[95] 6. Như đất, không hiềm hận,
Như cột trụ, kiên trì,
Như hồ, không bùn nhơ,
Không luân hồi, vị ấy.
6. Paṭhavi samo no virujjhati – indakhīlūpamo tādi subbato
Rahado’va apetakaddamo – samsārā na bhavanti tādino.
6. Giống như trái đất không chống đối, tựa như cột trụ chống, vị có sự hành trì tốt đẹp như thế ấy ví như hồ nước đã được vét bùn, không còn các việc luân hồi đối với vị như thế ấy.
[96] 7. Người tâm ý an tịnh,
Lời an, nghiệp cũng an,
Chánh trí, chơn giải thoát,
Tịnh lạc là vị ấy.
7. Santaṁ tassa manaṁ hoti -santā vācā ca kamma ca
Sammadaññāvimuttassa – upasantassa tādino.
7. Đối với vị đã được giải thoát do sự hiểu biết đúng đắn, đã được an tịnh như thế ấy, suy nghĩ của vị ấy là thanh tịnh, lời nói và hành động đều thanh tịnh.
[97] 8. Không tin, hiểu vô vi.
Người cắt mọi hệ lụy
Cơ hội tận, xả ly
Vị ấy thật tối thượng.
8. Assaddho akataññū ca – sandhicchedo ca yo naro
Hatāvakāso vantāso – sa ve uttamaporiso.
8. Người nào không tà tín, biết sự không tạo tác (Niết Bàn), cắt đứt sự tiếp nối (tái sanh), đã tiêu diệt duyên cớ, đã buông bỏ niềm ước muốn, chính vị ấy là con người tối thượng.
[98] 9. Làng mạc hay rừng núi
Thung lũng hay đồi cao,
La Hán trú chỗ nào,
Ðất ấy thật khả ái
9. Gāme vā yadī vā’ raññe – ninne vā yadi vā thale
Yatthārahanto viharanti – taṁ bhūmiṁ rāmaṇeyyakaṁ.
9. Cho dầu ở làng, hoặc là ở rừng, cho dầu ở thung lũng hoặc ở cao nguyên, nơi nào các vị A-la-hán cư ngụ, vùng đất ấy thật đáng ưa thích.
[99] 10. Khả ái thay núi rừng,
Chỗ người phàm không ưa,
Vị ly tham ưa thích,
Vì không tìm dục lạc.
10. Ramaṇīyāni araññāni – yattha na ramatī jano
Vītarāgā ramissanti – na te kāmagavesino.
10. Các khu rừng đáng ưa thích là nơi dân chúng không ưa thích. Những vị có tham ái đã lìa sẽ thích thú, họ không có sự tầm cầu dục lạc.
8. PHẨM NGÀN - SAHASSA VAGGA
[100] 1. Dầu nói ngàn ngàn lời,
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn một câu nghĩa,
Nghe xong, được tịnh lạc.
1. Sahassam api ce vācā – anatthapadasaṁhitā
Ekaṁ gāthāpadaṁ seyyo – yaṁ sutvā upasammati.
1. Nếu một ngàn lời nói mà chỉ chứa đựng những từ vô nghĩa, thì một từ có ý nghĩa là tốt hơn, sau khi nghe nó được an tịnh.
[101] 2. Dầu nói ngàn câu kệ
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn nói một câu,
Nghe xong, được tịnh lạc.
2. Sahassam api ce gāthā – anatthapadasaṁhitā
Ekaṁ gāthāpadaṁ seyyo – yaṁ sutvā upasammati.
2. Nếu một ngàn câu kệ mà chỉ chứa đựng những từ vô nghĩa, thì một chữ của câu kệ là tốt hơn, sau khi nghe nó được an tịnh.
[102] 3. Dầu nói trăm câu kệ
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn một câu pháp,
Nghe xong, được tịnh lạc.
3. Yo ca gāthāsataṁ bhāse – anatthapadasaṁhitā
Ekaṁ gāthāpadaṁ seyyo – yaṁ sutvā upasammati.
3. Nếu người nào nói một trăm câu kệ chứa đựng những từ vô nghĩa, thì (nói) một câu Pháp là tốt hơn, sau khi nghe nó được an tịnh.
[103] 4. Dầu tại bãi chiến trường
Thắng ngàn ngàn quân địch,
Tự thắng mình tốt hơn,
Thật chiến thắng tối thượng.
4. Yo sahassaṁ sahassena – saṅgāme mānuse jine
Ekañ ca jeyya m’ attānaṁ – sa ve saṅgāmajuttamo.
4. Người nào có thể chiến thắng một ngàn người một ngàn lần ở chiến trường, và người có thể chiến thắng mỗi một bản thân mình, người ấy quả thật là tối thượng trong số những người chiến thắng ở chiến trường.
[104] 5. Tự thắng, tốt đẹp hơn,
Hơn chiến thắng người khác.
Người khéo điều phục mình,
Thường sống tự chế ngự.
5. Attā have jitaṁ seyyo – yā cā’yaṁ itarā pajā
Attadantassa posassa – niccaṁ saññatacārino.
5. Đúng vậy, đối với con người đã rèn luyện bản thân, có hành vi được chế ngự thường xuyên, chiến thắng bản thân là tốt hơn chiến thắng những người khác.
[105] 6. Dầu Thiên Thần, Thát Bà,
Dầu Ma vương, Phạm Thiên
Không ai chiến thắng nổi,
Người tự thắng như vậy.
6. N’ eva devo na gandhabbo – na māro saha brahmunā jitaṁ apajitaṁ kayirā – tathārūpassa jantuno.
6. Không phải vị Trời, không phải vị Càn-thát-bà, không phải Ma Vương cùng với Phạm Thiên có thể làm cho sự chiến thắng của con người có tính chất như thế trở thành chiến bại.
[106] 7. Tháng tháng bỏ ngàn vàng,
Tế tự cả trăm năm,
Chẳng bằng trong giây lát,
Cúng dường bậc tự tu.
Cùng dường vậy tốt hơn,
Hơn trăm năm tế tự.
7. Māse māse sahassena – yo yajetha sataṁ samaṁ
Ekañ ca bhāvitattānaṁ – muhuttam api pūjaye
Sā y’eva pūjanā seyyo – yañ ce vassasataṁ hutaṁ.
7. Người cúng tế một ngàn (đồng tiền) hàng tháng trong một trăm năm, và người lễ bái đến một vị có bản thân đã được tu tập dầu chỉ trong phút chốc, chính việc lễ bái ấy là tốt hơn việc tế lễ một trăm năm.
[107] 8. Dầu trải một trăm năm,
Thờ lửa tại rừng sâu,
Chẳng bằng trong giây lát,
Cúng dường bậc tự tu.
Cúng dường vậy tốt hơn,
Hơn trăm năm tế tự.
8. Yo ce vassasataṁ jantu – aggiṁ paricare vane
Ekañ ca bhāvitattānaṁ – muhuttam api pūjaye
Sā y’eva pūjanā seyyo – yañ ce vassasataṁ hutaṁ.
8. Người hầu cận ngọn lửa ở khu rừng trong một trăm năm, và người lễ bái đến một vị có bản thân đã được tu tập dầu chỉ trong phút chốc, chính việc lễ bái ấy là tốt hơn việc tế lễ một trăm năm.
[108] 9. Suốt năm cúng tế vật,
Ðể cầu phước ở đời.
Không bằng một phần tư
Kính lễ bậc chánh trực.
9. Yaṁ kiñci iṭṭham va hutam va loke – saṁvaccharaṁ yajetha puññapekho
Sabbam pi taṁ na catubhāgameti – abhivādanā ujjugatesu seyyo.
9. Người mong mỏi phước báu có thể cúng tế bất cứ vật cúng tế hoặc vật tế lễ nào ở thế gian trọn năm, toàn bộ việc ấy cũng không đạt được một phần tư, việc đảnh lễ ở các vị chánh trực là tốt hơn.
[109] 10. Thường tôn trọng, kính lễ
Bậc kỳ lão trưởng thượng,
Bốn pháp được tăng trưởng:
Thọ, sắc, lạc, sức mạnh.
10. Abhivādanasīlissa – niccaṁ vaddhāpacāyino
Cattāro dhammā vaḍḍhanti – āyu vaṇṇo sukhaṁ balaṁ.
10. Bốn pháp: tuổi thọ, sắc đẹp, an vui, sức mạnh tăng trưởng đến người có tập tính đảnh lễ và thường xuyên có sự kính trọng đến các bậc trưởng thượng.
[110] 11. Dầu sống một trăm năm
Ác giới, không thiền định,
Tốt hơn sống một ngày,
Trì giới, tu thiền định.
11. Yo ca vassasataṁ jīve -dussīlo asamāhito
Ekāhaṁ jīvitaṁ seyyo -sīlavantassa jhāyino.
11. Và người nào có thể sống một trăm năm, có giới xấu xa, không định tĩnh, mạng sống một ngày của người có giới hạnh, có thiền, là tốt hơn.
[111] 12. Ai sống một trăm năm,
Ác tuệ, không thiền định.
Tốt hơn sống một ngày,
Có tuệ, tu thiền định.
12. Yo ca vassasataṁ jīve -duppañño asamāhito
Ekāhaṁ jīvitaṁ seyyo -paññavantassa jhāyino.
12. Và người nào có thể sống một trăm năm, thiếu trí tuệ, không định tĩnh, mạng sống một ngày của người có tuệ, có thiền, là tốt hơn.
[112] 13. Ai sống một trăm năm,
Lười nhác không tinh tấn,
Tốt hơn sống một ngày
Tinh tấn tận sức mình.
13. Yo ca vassasataṁ jīve -kusīlo hīnavīriyo
Ekāhaṁ jīvitaṁ seyyo -viriyam ārabhato daḷhaṁ.
13. Và người nào có thể sống một trăm năm, lười biếng, có sự tinh tấn thấp kém, mạng sống một ngày của người đang ra sức tinh tấn một cách vững chãi là tốt hơn.
[113] 14. Ai sống một trăm năm,
Không thấy pháp sinh diệt,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp sinh diệt.
14. Yo ca vassasatam jīve – apassaṁ udayavyayaṁ
Ekāhaṁ jīvitaṁ seyyo – passato udayavyayaṁ.
14. Và người nào có thể sống một trăm năm, không nhìn thấy sự sanh và diệt, mạng sống một ngày của người nhìn thấy sự sanh và diệt là tốt hơn.
[114] 15. Ai sống một trăm năm,
Không thấy câu bất tử,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được câu bất tử.
15. Yo ca vassasataṁ jīve – apassaṁ amataṁ padaṁ
Ekāhaṁ jīvitāṁ seyyo – passato amataṁ padam.
15. Và người nào có thể sống một trăm năm, không nhìn thấy vị thế Bất Tử, mạng sống một ngày của người nhìn thấy vị thế Bất Tử là tốt hơn.
[115] 16. Ai sống một trăm năm,
Không thấy pháp tối thượng,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp tối thượng.
16. Yo ca vassasataṁ jīve – apassaṁ dhammamuttamaṁ
Ekāhaṁ jīvitaṁ seyyo – passato dhammamuttamaṁ.
16. Và người nào có thể sống một trăm năm, không nhìn thấy Giáo Pháp tối thượng, mạng sống một ngày của người nhìn thấy Giáo Pháp tối thượng là tốt hơn.
9. PHẨM ÁC - PĀPA VAGGA
[116] 1. Hãy gấp làm điều lành,
Ngăn tâm làm điều ác.
Ai chậm làm việc lành,
Ý ưa thích việc ác.
1. Abhittharetha kalyāne – pāpā cittaṁ nivāraye
Dandhaṁ hi karoto puññaṁ – pāpasmiṁ ramati mano.
1. Nên mau mắn trong việc tốt, nên ngăn chặn tâm khỏi điều ác, bởi vì khi người làm việc phước thiện một cách chậm chạp, tâm của người thích thú trong việc ác.
[117] 2. Nếu người làm điều ác,
Chớ tiếp tục làm thêm.
Chớ ước muốn điều ác,
Chứa ác, tất chịu khổ.
2. Pāpañ ce puriso kayirā – na taṁ kayirā punappunaṁ
Ṅa tamhi chandaṁ kayirātha – dukkho pāpassa uccayo.
2. Nếu người làm việc ác, không nên tiếp tục làm việc ấy nữa. Không nên tạo ra sự mong muốn về việc ấy, sự tích lũy việc ác là khổ đau.
[118] 3. Nếu người làm điều thiện,
Nên tiếp tục làm thêm.
Hãy ước muốn điều thiện,
Chứa thiện, được an lạc.
3. Puññaṁ ce puriso kayirā – kayirāth’etaṁ punappunaṁ
Tamhi chandaṁ kayirātha- sukho puññassa uccayo.
3. Nếu người làm việc phước thiện, nên tiếp tục làm việc ấy. Nên tạo ra sự mong muốn về việc ấy, sự tích lũy việc phước thiện là hạnh phúc.
[119] 4. Người ác thấy là hiền.
Khi ác chưa chín muồi,
Khi ác nghiệp chín muồi,
Người ác mới thấy ác.
4. Pāpo’ pi passati bhadraṁ – yāva pāpaṁ na paccati
Yadā ca paccati pāpaṁ – atha pāpo pāpāni passati.
4. Người làm ác cũng gặp được điều lành khi nào việc ác chưa được chín muồi. Và khi nào việc ác được chín muồi, khi ấy người làm ác gặp những điều xấu xa.
[120] 5. Người hiền thấy là ác,
Khi thiện chưa chín muồi.
Khi thiện được chín muồi,
Người hiền thấy là thiện.
5. Bhadro’ pi passati pāpaṁ – yāva bhadraṁ na paccati
yādā ca paccati bhadraṁ – atha bhadro bhadrāni passati.
5. Người làm lành cũng gặp điều xấu xa khi nào việc lành chưa được chín muồi. Và khi nào việc lành được chín muồi, khi ấy người làm lành gặp những điều tốt lành.
[121] 6. Chớ chê khinh điều ác,
Cho rằng “chưa đến mình “,
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người ngu chứa đầy ác
Do chất chứa dần dần.
6. Māvamaññetha 1 pāpassa – na maṁ taṁ āgamissati
Udabindunipātena – udakumbho’pi pūrāti
Pūrati bālo pāpassa – thokathokam’ pi ācinaṁ.
6. Chớ xem thường việc ác (nghĩ rằng): ‘Điều ấy sẽ không đến cho ta.’ Với việc nhỏ xuống từng giọt nước, bình nước cũng được tràn đầy, trong khi tích lũy (việc ác) dầu chỉ từng chút từng chút, kẻ ngu bị ngập tràn việc ác.
[122] 7. Chớ chê khinh điều thiện
Cho rằng “Chưa đến mình, ”
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người trí chứa đầy thiện,
Do chất chứa dần dần.
7. Māvamaññetha 1 puññassa – na mam taṁ āgamissati
Udabindunipātena – udakumbho’pi purāti
Purāti dhīro puññassa – thokathokam pi ācinaṁ.
7. Chớ xem thường việc phước (nghĩ rằng): ‘Điều ấy sẽ không đến cho ta.’ Với việc nhỏ xuống từng giọt nước, bình nước cũng được tràn đầy, trong khi tích lũy (việc phước) dầu chỉ từng chút từng chút, người sáng trí được ngập tràn việc phước.
[123] 8. Ít bạn đường, nhiều tiền,
Người buôn tránh đường hiểm.
Muốn sống, tránh thuốc độc,
Hãy tránh ác như vậy.
8. Vānijo’ va bhayaṁ maggaṁ – appasattho mahaddhano
Visaṁ jīvitukāmo’ va – pāpāni parivajjaye.
8. Nên lánh xa các việc ác, ví như người thương buôn có đoàn lữ hành ít ỏi mà có tài sản lớn lao nên lánh xa con đường nguy hiểm, ví như người có ý muốn sống nên lánh xa thuốc độc.
[124] 9. Bàn tay không thương tích,
Có thể cầm thuốc độc.
Không thương tích, tránh độc,
Không làm, không có ác.
9. Paṇnimhi ce vaṇo n’āssa – hareyya pāṇinā visaṁ
Nābbaṇam visam anveti – natthi pāpaṁ akubbato.
9. Có thể nắm lấy thuốc độc bằng bàn tay nếu ở bàn tay không có vết thương; thuốc độc không ngấm vào chỗ không có vết thương, không có điều ác cho người không làm (ác).
[125] 10. Hại người không ác tâm,
Người thanh tịnh, không uế,
Tội ác đến kẻ ngu,
Như ngược gió tung bụi.
10. Yo appaduṭṭhassa narassa dussati – suddhassa posassa aṅanganassa
Tam eva bālaṁ pacceti pāpaṁ – sukhumo rajo paṭivātaṁ’ vakhitto.
10. Kẻ nào bôi nhọ người không bị ô nhiễm,
người trong sạch, không vết nhơ,
điều xấu xa quay về chính kẻ ngu ấy,
ví như bụi bặm li ti được tung ra ngược chiều gió.
[126] 11. Một số sinh bào thai,
Kẻ ác sinh địa ngục,
Người thiện lên cõi trời,
Vô lậu chứng Niết Bàn.
11. Gabbham eke uppajjanti – nirayaṁ pāpakammino
Saggaṁ sugationo yanti – parinibbanti anāsavā.
11. Một số sanh vào bào thai, những kẻ có nghiệp ác sanh vào địa ngục, những người có hạnh lành đi đến cõi trời, các bậc vô lậu viên tịch Niết Bàn.
[127] 12. Không trên trời, giữa biển,
Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn được quả ác nghiệp.
12. Na antaḷikkhe na samuddhamajjhe – na pabbatānaṁ vivaraṁ pavissa
Na vijjati so jagatippadeso – yatthaṭṭhito muñceyya pāpakammā.
12. Không phải ở bầu trời, không phải ở giữa biển khơi,
không phải đã đi vào khe của những ngọn núi,
không tìm thấy khu vực ấy ở trên trái đất,
nơi mà người đứng ở đó có thể thoát khỏi nghiệp ác.
[128] 13. Không trên trời, giữa biển,
Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn khỏi tay thần chết.
13. Na antaḷikkhe na samuddamajjhe – na pabbatānaṁ vivaraṁ pavissa
Na vijjati so jagatippadeso -yatthaṭṭhitaṁ nappasahetha maccu.
13. Không phải ở bầu trời, không phải ở giữa biển khơi,
không phải đã đi vào khe của những ngọn núi,
không tìm thấy khu vực ấy ở trên trái đất,
nơi mà người đứng ở đó thì Tử Thần không thể khống chế.
10. PHẨM HÌNH PHẠT - DAṆḌA VAGGA
[129] 1. Mọi người sợ hình phạt,
Mọi người sợ tử vong.
Lấy mình làm ví dụ
Không giết, không bảo giết.
1. Sabbe tasanti daṇḍassa – sabbe bhāyanti maccuno
Attānaṁ upamaṁ katvā – na haneyya na ghātaye.
1. Tất cả khiếp sợ hành phạt, tất cả sợ hãi Tử Thần. Sau khi lấy bản thân làm ví dụ, chớ nên giết hại, chớ nên bảo (kẻ khác) giết hại.
[130] 2. Mọi người sợ hình phạt,
Mọi người thích sống còn;
Lấy mình làm ví dụ,
Không giết, không bảo giết.
2. Sabbe tasanti daṇḍassa – sabbesaṁ jīvitaṁ piyaṁ
Attānaṁ upamaṁ katvā – na haneyya na ghātaye.
2. Tất cả khiếp sợ hành phạt, tất cả xem mạng sống là yêu quý. Sau khi lấy bản thân làm ví dụ, chớ nên giết hại, chớ nên bảo (kẻ khác) giết hại.
[131] 3. Chúng sanh cầu an lạc,
Ai dùng trượng hại người,
Ðể tìm lạc cho mình,
Ðời sau không được lạc.
3. Sukhakāmāni bhūtāni – yo daṇḍena vihiṁsati
Attano sukham esāno –
pecca so na labhate sukhaṁ.
3. Kẻ nào hãm hại các chúng sanh có sự mong mỏi hạnh phúc bằng hành phạt trong khi tầm cầu hạnh phúc cho mình, kẻ ấy không đạt được hạnh phúc sau khi chết.
[132] 4. Chúng sanh cầu an lạc,
Không dùng trượng hại người,
Ðể tìm lạc cho mình,
Ðời sau được hưởng lạc.
4. Sukhakāmāni bhūtāni – yo daṇḍena na hiṁsati
Attano sukham esāno – pecca so labhate sukhaṁ.
4. Kẻ nào không hãm hại các chúng sanh có sự mong mỏi hạnh phúc bằng hành phạt trong khi tầm cầu hạnh phúc cho mình, kẻ ấy đạt được hạnh phúc sau khi chết.
[133] 5. Chớ nói lời ác độc,
Nói ác, bị nói lại,
Khổ thay lời phẩn nộ,
Ðao trượng phản chạm mình.
5. M’āvoca pharusaṁ kañci – vuttā paṭivadeyyu taṁ
Dukkhā hi sārambhakathā – paṭidaṇḍā phuseyyu taṁ.
5. Ngươi chớ nói điều thô lỗ đến bất cứ ai. Những người đã bị (ngươi) nói có thể nói lại ngươi. Những lời nói cộc cằn quả là tai hại, (bởi vì) các sự đánh trả lại có thể giáng xuống cho ngươi.
[134] 6. Nếu tự mình yên lặng,
Như chiếc chuông bị bể.
Ngươi đã chứng Niết Bàn
Ngươi không còn phẩn nộ.
6. Sace neresi attānaṁ – kaṁso upahato yathā
Esa patto’si nibbānaṁ – sarambho te na vijjati.
6. Nếu ngươi không dao động bản thân giống như cái chuông đã bị bể, chính ngươi đã đạt đến Niết Bàn, sự thù hằn không tìm thấy ở ngươi.
[135] 7. Với gậy người chăn bò,
Lùa bò ra bãi cỏ;
Cũng vậy, già và chết,
Lùa người đến mạng chung.
7. Yathā daṇḍena gopālo – gāvo pāceti gocaraṁ
Evaṁ jarā ca maccū ca – āyuṁ pāceti pāṇinaṁ.
7. Giống như người chăn bò dùng gậy gộc lùa bầy bò ra đồng cỏ, tương tự như thế sự già và sự chết xua đuổi tuổi thọ của các chúng sanh.
[136] 8. Người ngu làm điều ác,
Không ý thức việc làm.
Do tự nghiệp, người ngu
Bị nung nấu, như lửa.
8. Atha pāpāni kamm āni – karam bālo na bujjhati
Sehi kammehi dummedho – aggidaḍḍho’ va tappati.
8. Và trong khi làm các việc ác, kẻ ngu không được sáng suốt. Kẻ có trí tồi bị hối hận bởi các hành động của mình, ví như bị đốt thiêu bởi ngọn lửa.
[137] 9. Dùng trượng phạt không trượng,
Làm ác người không ác.
Trong mười loại khổ đau,
Chịu gấp một loại khổ
9. Yo daṇḍena adandesu -appaduṭṭhesu dussati
Dasannam aññataraṁ ṭhānaṁ khippam eva nigacchati.
9. Kẻ nào dùng gậy gộc gây hại đến các bậc không có gậy gộc, không bị ô nhiễm, ngay lập tức bị đọa vào một trong mười trường hợp:
[138] 10. Hoặc khổ thọ khốc liệt,
Thân thể bị thương vong,
Hoặc thọ bệnh kịch liệt,
Hay loạn ý tán tâm.
10. Vedanaṁ pharusaṁ jāniṁ -sarīrassa ca bhedanaṁ
Garukaṁ vā’ pi ābādhaṁ cittakkhepaṁ va pāpuṇe.
10. (Kẻ ấy) có thể gánh chịu cảm thọ khốc liệt, sự mất mát tài sản, và sự tổn thương của cơ thể, hoặc là bịnh hoạn trầm trọng, hoặc sự mất trí.
[139] 11. Hoặc tai họa từ vua,
Hay bị vu trọng tội;
Bà con phải ly tán,
Tài sản bị nát tan.
11. Rājato vā upassaggaṁ -abbhakkhānaṁ va dāruṇaṁ
Parikkhayaṁ va ñātīnaṁ -bhogānaṁ va pabhaṅguraṁ.
11. Hoặc là sự phiền hà từ nhà vua, hay sự cáo tội khắc nghiệt, hoặc là sự tổn thất về thân quyến, hay sự tiêu tán về các của cải.
[140] 12. Hoặc phòng ốc nhà cửa
Bị hỏa tai thiêu đốt.
Khi thân hoại mạng chung,
Ác tuệ sanh địa ngục.
12. Atha v’assa agārāni aggi ḍahati pāvako
Kāyassa bhedā duppañño -nirayaṁ so’ papajjati.
12. Hoặc là ngọn lửa phát khởi thiêu đốt các gian nhà của kẻ ấy. Do sự hoại rã của thân, kẻ thiếu trí tuệ ấy bị sanh vào địa ngục.
[141] 13. Không phải sống lõa thể
Bện tóc, tro trét mình,
Tuyệt thực, lăn trên đất,
Sống nhớp, siêng ngồi xổm,
Làm con người được sạch,
Nếu không trừ nghi hoặc.
13. Na naggacariyā na jaṭā na paṅkā – nānāsakā thaṇḍilasāyikā vā
Rajo ca jallaṁ ukkuṭikappadhānaṁ – sodhenti maccam avitiṇṇakaṅkhaṁ.
13. Không phải sự thực hành lõa thể, không phải các búi tóc, không phải (sự bôi trét) các bùn đất, không phải sự tuyệt thực, hoặc sự nằm trên mặt đất, không phải bụi bặm và cáu ghét, không phải sự ra sức ngồi chồm hổm làm trong sạch con người chưa vượt qua sự nghi hoặc.
[142] 14. Ai sống tự trang sức,
Nhưng an tịnh, nhiếp phục,
Sống kiên trì, phạm hạnh,
Không hại mọi sinh linh,
Vị ấy là phạm chí,
Hay sa môn, khất sĩ.
14. Alaṅkato ce’pi samaṁ careyya – santo danto niyato brahmacārī
Sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṁ – so brāhmaṇo so samaṇo sa bhikkhu.
14. Mặc dầu đã được trang sức, mà có thể thực hành sự trầm tĩnh,
được an tịnh, đã được rèn luyện, quả quyết, có Phạm hạnh,
đã buông bỏ sự hành hạ đối với tất cả chúng sanh,
vị ấy là Bà-la-môn, vị ấy là Sa-môn, vị ấy là tỳ khưu.
[143] 15. Thật khó tìm ở đời,
Người biết thẹn, tự chế,
Biết tránh né chỉ trích
Như ngựa hiền tránh roi.
15. Hirīnisedho puriso – koci lokasmim vijjati
15. Người có sự tự ngăn ngừa bằng pháp hổ thẹn (tội lỗi) khó tìm thấy ở thế gian, là người không khơi dậy lời chê trách, ví như con ngựa hiền không phải dùng đến cây roi.
[144] 16. Như ngựa hiền chạm roi,
Hãy nhiệt tâm, hăng hái,
Với tín, giới, tinh tấn,
Thiền định cùng trạch pháp.
Minh hạnh đủ, chánh niệm,
Ðoạn khổ này vô lượng.
16. Asso yathā bhadro kasāniviṭṭho – ātāpino saṁvegino bhavātha
Saddhāya sīlena ca viriyena ca – samādhinā dhammavinicchayena ca
Sampannavijjācaraṇā patissatā – pahassatha dukkham idaṁ anappakhaṁ.
16. Giống như con ngựa hiền được điều khiển bởi cây roi,
các ngươi hãy có sự nhiệt tâm, có sự năng nổ.
Với tín, với giới, và với tấn,
với định, và với sự thẩm định về pháp,
có minh và hạnh đầy đủ, có niệm,
các ngươi hãy dứt bỏ sự khổ đau không phải là nhỏ nhoi này.
[145] 17. Người trị thủy dẫn nước,
Kẻ làm tên nắn tên,
Người thợ mộc uốn ván,
Bậc tự điều, điều thân.
17. Udakaṁ hi nayanti nettikā -usukārā namayanti tejanaṁ
Dāruṁ namayamti tacchakā – attānaṁ damayanti subbatā.
17. Thật vậy, những người đào kênh dẫn nước, những thợ làm tên uốn nắn cây tên, những người thợ mộc tạo dáng thanh gỗ, những vị có sự hành trì tốt đẹp rèn luyện bản thân.
11. PHẨM GIÀ - JARĀ VAGGA
[146] 1. Cười gì, hân hoan gì,
Khi đời mãi bị thiêu?
Bị tối tăm bao trùm,
Sao không tìm ngọn đèn?
1. Ko nu hāso kimānando -niccaṁ pajjalite sati
Andhakārena onaddhā -padīpaṁ na gavessatha.
1. Nụ cười gì đây, tại sao có niềm vui, khi thường xuyên bị đốt cháy? Bị bao trùm bởi bóng tối, phải chăng các ngươi sẽ không tìm kiếm ngọn đèn?
[147] 2. Hãy xem bong bóng đẹp,
Chỗ chất chứa vết thương,
Bệnh hoạn nhiều suy tư,
Thật không gì trường cửu.
2. Passa cittakataṁ bimbaṁ -arukāyaṁ samussitaṁ
Āturaṁ bahusaṅkappaṁ – yassa natthi dhuvaṁ ṭhiti.
2. Hãy nhìn xem hình bóng đã được tô điểm, tập hợp những vết thương, đã được dựng đứng lên (với những mảnh xương), bệnh hoạn, có nhiều suy tư, đối với nó không có sự bền vững, ổn định.
[148] 3. Sắc này bị suy già,
Ổ tật bệnh, mỏng manh,
Nhóm bất tịnh, đỗ vỡ,
Chết chấm dứt mạng sống.
3. Parijiṇṇam idaṁ rūpaṁ -roganiḍḍhaṁ pabhaṅguraṁ
Bhijjati pūtisandeho -maranaṇtaṁ hi jīvitaṁ.
3. Thể xác này là hoàn toàn tàn tạ, ổ bệnh tật, mỏng manh. Xác thân hôi thối (sẽ) bị tan rã bởi vì mạng sống có sự chết là điểm cuối cùng.
[149] 4. Như trái bầu mù thu,
Bị vất bỏ quăng đi,
Nhóm xương trắng bồ câu,
Thấy chúng còn vui gì?
4. Yānimāni apatthāni – alāpūn’ eva sārade
Kāpotakāni aṭṭhīni – tāni disvāna kā rati.
4. Có sự thích thú gì sau khi nhìn thấy những mảnh xương có màu trắng xám này bị quăng bỏ tứ tán tựa như những trái bầu ở vào mùa thu?
[150] 5. Thành này làm bằng xương,
Quét tô bằng thịt máu,
Ở đây già và chết,
Mạn, lừa đảo chất chứa.
5. Aṭṭhīnaṁ nagaraṁ kataṁ -maṅsalohitalepanaṁ
Yattha jarā ca maccū ca – māno makkho ca ohito.
5. (Thân này) là thành trì được làm bằng những mảnh xương, có sự bôi trét bằng thịt và máu, là nơi mà sự già, sự chết, ngã mạn, và đố kỵ ẩn náu.
[151] 6. Xe vua đẹp cũng già.
Thân này rồi sẽ già,
Pháp bậc thiện, không già.
Như vậy bậc chí thiện
Nói lên cho bậc thiện.
6. Jīranti ve rājarathā sucittā – atho sarīram pi jaraṁ upeti
Sataṁ ca dhammo na jaraṁ upeti – santo have sabbhi pavedayanti.
6. Các cỗ xe của đức vua, khéo được trang điểm, đương nhiên (sẽ) trở thành tàn tạ, rồi thân xác cũng đi đến sự già nua, nhưng Giáo Pháp của các bậc Thánh không đi đến sự già nua. Đúng vậy, các bậc Thánh tuyên thuyết đến các người tốt lành.
[152] 7. Người ít nghe kém học,
Lớn già như trâu đực.
Thịt nó tuy lớn lên,
Nhưng tuệ không tăng trưởng.
7. Appassutāyaṁ puriso -balivaddo’va jīrati
Maṅsāni tassa vaḍḍhanti – paññā tassa na vaḍḍhati.
7. Người nam này, ít chịu học hỏi, trở thành già cỗi ví như con bò mộng, các bắp thịt của kẻ ấy tăng trưởng, trí tuệ của kẻ ấy không tăng trưởng.
[153] 8. Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay, phải tái sanh.
8. Anekajāti saṁsāraṁ – sandhāvissaṁ anibbisaṁ
Gahakārakaṁ gavesanto- dukkhā jāti punappunaṁ.
8. Ta đã trải qua luân hồi trong nhiều kiếp sống không ngừng nghỉ, trong khi tìm kiếm người thợ làm nhà; sự sanh tái diễn là khổ đau.
[154] 9. Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi!
Ngươi không làm nhà nữa.
Ðòn tay ngươi bị gẫy,
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong.
9. Gahakāraka diṭṭho’ si -puna gehaṁ na kāhasi
Sabbā te phāsukā bhaggā -gahakūṭaṁ visaṅkhitaṁ
Visaṅkhāragataṁ cittaṁ -taṇhānaṁ khayam ajjhagā
9. Hỡi người thợ làm nhà, ngươi đã bị nhìn thấy. Ngươi sẽ không xây dựng nhà nữa. Tất cả các rường cột của ngươi đã bị gãy đổ, mái nhà đã bị phá tan. Tâm (của Ta) đã đi đến sự không còn tạo tác, Ta đã chứng đạt sự diệt tận của các tham ái.
[155] 10. Lúc trẻ, không phạm hạnh,
Không tìm kiếm bạc tiền.
Như cò già bên ao,
Ủ rũ, không tôm cá.
10. Acaritvā brahmacariyaṁ -aladhā yobbane dhanaṁ
Jiṇṇakoñcā’ va jhāyanti -khīṇamacche’ va pallale.
10. Những người đã không thực hành Phạm hạnh, đã không đạt được tài sản lúc còn trẻ, ví như những con cò già bị tàn tạ ở hồ nước cạn, không còn cá.
[156] 11. Lúc trẻ không phạm hạnh,
Không tìm kiếm bạc tiền;
Như cây cung bị gẫy,
Thở than những ngày qua.
11. Acaritvā brahmacariyaṁ -aladdhā yobbane dhanaṁ
Senti cāpātikhīṇā’ va – purāṇāni anutthunaṁ.
11. Những người đã không thực hành Phạm hạnh, đã không thành tựu tài sản lúc còn trẻ, nằm dài thở than về các việc quá khứ, ví như những (mũi tên) hết đà bắn ra từ cây cung, rơi xuống đất.
12. PHẨM TỰ NGÃ - ATTA1 VAGGA
[157] 1. Nếu biết yêu tự ngã,
Phải khéo bảo vệ mình,
Người trí trong ba canh,
Phải luôn luôn tỉnh thức.
1. Attānaṁ ce piyaṁ jaññā -rakkheyya naṁ surakkhitaṁ
Tiṇṇam aññataraṁ yāmam paṭijaggeyya paṇḍito.
1. Nếu biết bản thân là đáng yêu thì nên bảo vệ nó một cách cẩn thận. Người sáng suốt nên cảnh tỉnh (bản thân) vào một trong ba thời[1].
[1] Chú giải giải thích là một trong ba giai đoạn của cuộc đời, chứ không phải một trong ba canh của đêm (DhA. iii, 138).
[158] 2. Trước hết tự đặt mình,
Vào những gì thích đáng.
Sau mới giáo hóa người,
Người trí khỏi bị nhiễm.
2. Attānaṁ eva paṭhamaṁ – patirūpe nivesaye
Ath’aññam anusāseyya – na kilisseyya paṇḍito.
2. Trước tiên nên huân tập chính bản thân ở việc đúng đắn, rồi mới nên chỉ dạy người khác, (như thế) người sáng suốt không thể bị ô nhiễm.
[159] 3. Hãy tự làm cho mình,
Như điều mình dạy người.
Khéo tự điều, điều người,
Khó thay, tự điều phục!
3. Attānaṁ ce tathā kayirā – yathaññamanusāsati
Sudanto vata dammetha – attā hi kira duddamo.
3. Nếu chỉ dạy người khác như thế nào thì nên thực hành đối với bản thân như vậy. Đúng vậy, người đã khéo được rèn luyện thì có thể rèn luyện (kẻ khác), bởi vì bản thân quả là khó rèn luyện.
[160] 4. Tự mình y chỉ mình,
Nào có y chỉ khác.
Nhờ khéo điều phục mình,
Ðược y chỉ khó được.
4. Attā hi attano nātho – ko hi nātho paro siyā
Attanā’ va sudantena – nāthaṁ labhati dullabhaṁ.
4. Chính ta là người bảo hộ cho ta, còn người nào khác nữa có thể là người bảo hộ (cho ta)? Khi chính ta đã khéo được rèn luyện, thì đạt được người bảo hộ là việc khó mà đạt được.
[161] 5. Ðiều ác tự mình làm,
Tự mình sanh, mình tạo.
Nghiền nát kẻ ngu si,
Như kim cương, ngọc báu.
5. Attanā’ va kataṁ pāpaṁ -attajaṁ attasambhavaṁ
Abhimanthati dummedhaṁ -vajiraṁ v’asmamayaṁ maṇiṁ.
5. Việc ác đã do chính ta làm, đã do ta gây ra, có nguồn sanh khởi từ nơi ta. Việc ác nghiền nát kẻ kém trí tuệ, ví như kim cương nghiền nát viên ngọc ma-ni làm bằng đá.
[162] 6. Phá giới quá trầm trọng,
Như dây leo bám cây
Gieo hại cho tự thân,
Như kẻ thù mong ước.
6. Yassa accantadussīlyaṁ māluvā sālam iv’ otataṁ
Karoti so tatha’ ttānaṁ -yathā naṁ icchatī diso.
6. Ví như dây leo māluva trùm lên cây sālā, người có giới tồi tệ quá mức tạo ra cho bản thân điều mà kẻ thù mong muốn gây ra cho người ấy.
[163] 7. Dễ làm các điều ác,
Dễ làm tự hại mình.
Còn việc lành, việc tốt,
Thật tối thượng khó làm.
7. Sukarāni asādhūni – attano ahitāni ca
Yaṁ ve hitañ ca sādhuñ ca – taṁ ve paramadukkaraṁ.
7. Những việc không tốt đẹp và không có lợi ích cho bản thân là những việc dễ làm. Đúng vậy, việc gì có lợi ích và tốt đẹp, việc ấy hiển nhiên là việc vô cùng khó làm.
[164] 8. Kẻ ngu si miệt thị,
Giáo pháp bậc La Hán,
Bậc Thánh, bậc chánh mạng.
Chính do ác kiến này,
Như quả loại cây lau
Mang quả tự hoại diệt.
8. Yo sāsanaṁ arahataṁ – ariyānaṁ dhammajīvinaṁ
Paṭikkosati dummedho – diṭṭhiṁ nissāya pāpikaṁ
Phalāni kaṭṭhakass’eva – attaghaññāya phallati.
8. Kẻ nào kém trí tuệ, nương tựa ác tà kiến, khinh miệt lời giảng dạy của các bậc A-la-hán, của các vị Thánh Nhân có đời sống đúng đắn, (kẻ ấy) gây nên hậu quả đưa đến sự tiêu hoại cho bản thân, ví như các trái của cây tre (khi trổ hoa kết trái thì hại chết cây tre).
[165] 9. Tự mình, làm điều ác,
Tự mình làm nhiễm ô,
Tự mình không làm ác,
Tự mình làm thanh tịnh.
Tịnh, không tịnh tự mình,
Không ai thanh tịnh ai!
9. Attanā’ va kataṁ pāpaṁ – attanā saṁkilissati
Attanā akataṁ pāpaṁ – attanā’ va visujjhati
Suddhi asuddhi paccattaṁ – n’āñño aññaṁ visodhaye.
9. Việc ác đã được làm bởi chính bản thân, trở thành ô nhiễm bởi bản thân. Việc ác đã không được làm bởi bản thân, trở thành trong sạch bởi chính bản thân. Trong sạch (hay) không trong sạch tùy thuộc vào bản thân, không ai có thể làm cho người khác trở thành trong sạch.
[166] 10. Dầu lợi người bao nhiêu,
Chớ quên phần tư lợi,
Nhờ thắng trí tư lợi.
Hãy chuyên tâm lợi mình.
10. Attadatthaṁ paratthena – bahunā’ pi na hāpaye
Attadatthaṁ bhiññāya – sadatthapasuto siyā.
10. Không nên buông bỏ lợi ích của bản thân vì lợi ích của kẻ khác cho dầu là lớn lao. Sau khi biết rõ lợi ích của bản thân, nên quan tâm đến lợi ích của mình.
13. PHẨM THẾ GIAN - LOKA VAGGA
[167] 1. Chớ theo pháp hạ liệt.
Chớ sống mặc, buông lung;
Chớ tin theo tà kiến,
Chớ tăng trưởng tục trần.
1. Hinām dhammaṁ na seveyya pamādena na saṁvase
Micchādiṭṭhiṁ na seveyya – na siyā lokavaddhano.
1. Không nên thân cận với pháp thấp kém (ngũ dục). Không nên sống với sự xao lãng. Không nên thân cận với tà kiến. Không nên bận rộn với thế gian.
[168] 2. Nỗ lực, chớ phóng dật!
Hãy sống theo chánh hạnh;
Người chánh hạnh hưởng lạc,
Cả đời này, đời sau
2. Uttiṭṭhe nappamajjeyya – dhammaṁ sucaritaṁ care
Dhammacārī sukhaṁ seti – asmiṁ loke paramhi ca.
2. Nên nỗ lực, không nên xao lãng. Nên thực hành pháp một cách tốt đẹp. Người có sự thực hành pháp sống[2] an lạc trong đời này và trong đời sau.
Không ghi theo nghĩa thông thường của seti là ‘nằm, ngủ.’ Chú Giải giải thích từ seti là viharati: ‘sống, sinh hoạt’ (DhA. iii, 165).
[169] 3. Hãy khéo sống chánh hạnh,
Chớ sống theo tà hạnh!
Người chánh hạnh hưởng lạc,
Cả đời này, đời sau.
3. Dhammaṁ care sucaritaṁ – na naṁ duccaritaṁ care
Dhammacārī sukhaṁ seti – asmiṁ loke paramhi ca.
3. Nên thực hành pháp một cách tốt đẹp, không nên thực hành việc ấy một cách sai trái. Người có sự thực hành pháp sống an lạc trong đời này và trong đời sau.
[170] 4. Hãy nhìn như bọt nước,
Hãy nhìn như cảnh huyễn!
Quán nhìn đời như vậy,
Thần chết không bắt gặp.
4. Yathā bubbulakaṁ passe – yathā passe marīcikaṁ
Evaṁ lokaṁ avekkhantaṁ maccurājā na passati.
4. Nên xem (thế gian) như bọt nước, nên xem (thế gian) như ảo ảnh, Thần Chết không nhìn thấy người đang quan sát thế gian như vậy.
[171] 5. Hãy đến nhìn đời này,
Như xe vua lộng lẫy,
Người ngu mới tham đắm,
Kẻ trí nào đắm say.
5. Etha passath’ imaṁ lokaṁ –
cittaṁ rājarathūpamaṁ
Yattha bālā visīdanti –
natthi saṅgo vijānataṁ.
5. Hãy đến, hãy xem thế gian này đã được tô điểm tương tự như cỗ xe của đức vua, những kẻ ngu chìm đắm ở nơi ấy, không có sự dính líu đối với những người đang nhận thức (như thế).
[172] 6. Ai sống trước buông lung,
Sau sống không phóng dật,
Chói sáng rực đời này.
Như trăng thoát mây che.
6. Yo ca pubbe pamajjitvā – pacchā so nappamajjati
So imaṁ lokaṁ pabhāseti – abbhā mutto’ va candimā.
6. Và người nào trước đây xao lãng, về sau người ấy không xao lãng, người ấy chiếu sáng thế gian này, ví như mặt trăng được ra khỏi đám mây.
[173] 7. Ai dùng các hạnh lành,
Làm xóa mờ nghiệp ác,
Chói sáng rực đời này,
Như trăng thoát mây che.
7. Yassa pāpaṁ kataṁ kammaṁ – kusalena pithīyati
So imaṁ lokaṁ pabhāseti –
abbhā mutto’ va candimā.
7. Nghiệp ác đã làm của người nào được đóng lại bởi việc thiện, người ấy chiếu sáng thế gian này, ví như mặt trăng được ra khỏi đám mây.
[174] 8. Ðời này thật mù quáng,
Ít kẻ thấy rõ ràng.
Như chim thoát khỏi lưới,
Rất ít đi thiên giới.
8. Andhabhūto ayaṁ loko – tanuk’ettha vipassati
Sakunto jālamutto‘va – appo saggāa gacchati.
8. Thế gian này là mù quáng, ở đây số ít nhìn thấy rõ. Ví như (số lượng) con chim được thoát khỏi tấm lưới, ít người đi đến cõi trời.
[175] 9. Như chim thiên nga bay,
Thần thông liệng giữa trời;
Chiến thắng ma, ma quân,
Kẻ trí thoát đời này.
9. Hamsādiccapathe yanti – ākāse yanti iddhiyā
Nīyanti dhīrā lokamhā – jetvā māraṁ savāhiniṁ.
9. Các con thiên nga di chuyển theo đường đi của mặt trời. Những người đi ở không gian nhờ vào thần thông. Các bậc sáng trí lìa khỏi thế gian sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với đám quân binh.
[176] 10. Ai vi phạm một pháp,
Ai nói lời vọng ngữ,
Ai bác bỏ đời sau,
Không ác nào không làm.
10. Ekaṁ dhammaṁ atītassa – musāvādissa jantuno
Vitiṇṇaparalokassa – natthi pāpaṁ akāriyaṁ.
10. Đối với người đã vượt qua một pháp (chân thật), có lời nói dối trá, đã không quan tâm đến đời sau, không có việc ác nào là sẽ không làm.
[177] 11. Keo kiết không sanh thiên,
Kẻ ngu ghét bố thí,
Người trí thích bố thí,
Ðời sau, được hưởng lạc.
11. Na ve kadariyā devalokaṁ vajanti – bālā have nappasaṁsanti dānaṁ
Dhīro ca dānaṁ anumodamāno – ten’ eva so hoti sukhī parattha.
11. Đương nhiên, những kẻ keo kiệt không đi đến Thiên giới.
Đúng vậy, những kẻ ngu không khen ngợi việc bố thí.
Và người sáng trí, trong khi tùy hỷ việc bố thí,
do chính việc ấy vị ấy có được sự an vui ở đời sau.
[178] 12. Hơn thống lãnh cõi đất,
Hơn được sanh cõi trời,
Hơn chủ trì vũ trụ,
Quả Dự Lưu tối thắng.
12. Pathavyā ekarajjena – saggassa gamanena vā
Sabbalokādhipaccena – sotāpattiphalaṁ varaṁ.
12. Quả vị Nhập Lưu là cao quý so với vương quyền độc nhất ở trái đất, hoặc việc đi đến cõi trời, hoặc quyền chúa tể của toàn thể thế gian.
14.PHẨM ĐỨC PHẬT - BUDDHA VAGGA
[179] 1. Vị chiến thắng không bại,
Vị bước đi trên đời,
Không dấu tích chiến thắng,
Phật giới rộng mênh mông,
Ai dùng chân theo dõi
Bậc không để dấu tích?
1. Yassa jitaṁ n’āvajīyati jitamassa no yāti koci loke
Taṁ buddham anantagocaraṁ apadam kena padena nessatha.
1. Chiến thắng của vị nào không bị hạ thấp, chiến thắng của vị nào không một ai ở thế gian đạt đến, vị ấy là đức Phật, có hành xứ không bị giới hạn, không dấu vết, vậy ngươi sẽ dẫn dắt Ngài đi theo lối nào?
[180] 2. Ai giải tỏa lưới tham,
Ái phược hết dắt dẫn,
Phật giới rộng mênh mông,
Ai dùng chân theo dõi,
Bậc không để dấu tích?
2. Yassa jālinī visattikā – taṇhā natthi kuhiñci netave
Taṁ buddham anantagocaraṁ apadaṁ kena padena nessatha.
2. Tham ái, tấm lưới bẫy, sự vướng mắc của vị nào là không còn để dẫn dắt đi bất cứ đâu, vị ấy là đức Phật, có hành xứ không bị giới hạn, không dấu vết, vậy ngươi sẽ dẫn dắt Ngài đi theo lối nào?
[181] 3. Người trí chuyên thiền định,
Thích an tịnh viễn ly,
Chư thiên đều ái kính,
Bậc chánh giác, chánh niệm.
3. Ye jhānapasutā dhīrā – nekkhammūpasame ratā
Devā’ pi tesaṁ pihayanti – sambuddhānaṁ satīmataṁ.
3. Các vị nào chuyên chú tham thiền, sáng trí, thích thú ở sự an tịnh của việc xuất ly, chư Thiên cũng mong mỏi các vị ấy, các bậc Chánh Đẳng Giác, có niệm.
[182] 4. Khó thay, được làm người,
Khó thay, được sống còn,
Khó thay, nghe diệu pháp,
Khó thay, Phật ra đời!
4. Kiccho manussapaṭilābho –
kicchaṁ maccāna jīvitaṁ
Kicchaṁ saddhammasavaṇaṁ kiccho buddhānaṁ uppādo.
4. Sự đạt được thân người là khó, mạng sống của loài người là khó, (cơ hội) lắng nghe Chánh Pháp là khó, sự hiện khởi của chư Phật là khó.
[183] 5. Không làm mọi điều ác.
Thành tựu các hạnh lành,
Tâm ý giữ trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy.
5. Sabbapāpassa akaraṇaṁ kusalassa upasampadā
Sacittapariyodapanaṁ etaṁ buddhāna sāsanaṁ.
5. Không làm mọi điều ác, thành tựu việc thiện, thanh lọc tâm của mình, điều này là lời giáo huấn của chư Phật.
[184] 6. Chư Phật thường giảng dạy;
Nhẫn, khổ hạnh tối thượng,
Niết bàn, quả tối thượng;
Xuất gia không phá người;
Sa môn không hại người.
6. Khantī paramaṁ tapo titikkhā -nibbānaṁ paramaṁ vadanti buddhā
Na hi pabbajito parūpaghātī – samaṇo hoti paraṁ viheṭhayanto.
6. Nhẫn nại, chịu đựng là sự khổ hạnh tối thượng.
Chư Phật nói Niết Bàn là tối thượng.
Kẻ có sự hãm hại người khác đương nhiên không phải là bậc xuất gia,
kẻ ức hiếp người khác không phải là Sa-môn.
[185] 7. Không phỉ báng, phá hoại,
Hộ trì giới căn bản,
Ăn uống có tiết độ,
Sàng tọa chỗ nhàn tịnh
Chuyên chú tăng thượng tâm,
Chính lời chư Phật dạy.
7. Anūpavādo anūpaghāto – pātimokkhe ca saṁvaro
Mattaññutā ca bhattasmim – panthañ ca sayanāsanaṁ
Adhicitte ca āyogo – etaṁ buddhāna sāsanaṁ.
7. Không phỉ báng, không giết hại, sự thu thúc theo giới bổn Pātimokkha, sự biết đủ về vật thực, chỗ nằm ngồi thanh vắng, và sự gắn bó vào tăng thượng tâm, điều này là lời giáo huấn của chư Phật.
[186] 8. Dầu mưa bằng tiền vàng,
Các dục khó thỏa mãn.
Dục đắng nhiều ngọt ít,
Biết vậy là bậc trí.
8. Na kahapaṇavassena – titti kāmesu vijjati
Appassādā dukhā kāmā – iti viññāya paṇḍito.
8. Không phải do trận mưa tiền vàng mà sự thỏa mãn ở các dục được tìm thấy. Bậc sáng suốt đã biết rằng: ‘Các dục là khổ đau, có ít khoái lạc.’
[187] 9. Ðệ tử bậc chánh giác,
Không tìm cầu dục lạc,
Dầu là dục chư thiên,
Chỉ ưa thích ái diệt.
9. Loài người sợ hoảng hốt,
Tìm nhiều chỗ quy y,
Hoặc rừng rậm, núi non,
Hoặc vườn cây, đền tháp.
9. Vị ấy không tầm cầu sự thích thú ở các dục, dầu là của cõi Trời. Người đệ tử của đấng Chánh Đẳng Giác thích thú sự diệt trừ tham ái.
[188] 10. Loài người sợ hoảng hốt,
Tìm nhiều chỗ quy y,
Hoặc rừng rậm, núi non,
Hoặc vườn cây, đền tháp.
10. Bahuṁ ve saraṇaṁ yanti – pabbatāni vanāni ca
Ārāmarukkhacetyāni – manussā bhayatajjitā.
10. Bị đe dọa bởi nỗi sợ hãi, loài người đi đến nhiều nơi nương nhờ: những ngọn núi, những khu rừng, những ngôi chùa, những cội cây, và những bảo tháp.
[189] 11. Quy y ấy không ổn,
Không quy y tối thượng.
Quy y các chỗ ấy,
Không thoát mọi khổ đau.
11. N’etaṁ kho sāraṇaṁ khemaṁ – ṇ’etaṁ saraṇam uttamaṁ
N’etaṁ saraṇam āgamma – sabbadukkhā pamuccati.
11. Nơi nương nhờ ấy quả thật là không an toàn, nơi nương nhờ ấy là không tối thượng, Sau khi đi đến nơi nương nhờ ấy không được thoát khỏi mọi khổ đau.
[190] 12. Ai quy y Ðức Phật,
Chánh pháp và chư tăng,
Ai dùng chánh tri kiến,
Thấy được bốn Thánh đế.
12. Yo ca buddhañ ca dhammañ ca – saṅghañ ca saraṅam 4 gato
Cattāri ariyasaccāni – sammappaññāya passati.
12. Người nào đi đến nương nhờ đức Phật, Giáo Pháp, và Tăng Chúng, (người ấy) thấy được bốn Chân Lý cao thượng bằng trí tuệ chân chánh.
[191] 13. Thấy khổ và khổ tập,
Thấy sự khổ vượt qua,
Thấy đường Thánh tám ngành,
Ðưa đến khổ não tận.
13. Dukkhaṁ dukkhasamuppādaṁ – dukkhassa ca atikkamaṁ
Ariyañcaṭṭhaṅgikaṁ maggaṁ – dukkhūpasamagāminaṁ
13. (Người ấy) thấy được Khổ, sự sanh lên của Khổ, sự vượt qua khỏi Khổ, và Thánh Đạo tám chi phần đưa đến sự yên lặng của Khổ.