Bāhitika Sutta
.
Kinh Bāhitika
Dịch giả
Hòa thượng Thích Minh Châu
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, Jetavana, tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp cô độc).
Rồi Tôn giả Ananda vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Savatthi để khất thực. Ði khất thực ở Savatthi xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Tôn giả đi đến lâu đài Pubbarama Migaramatu (Ðông Viên Lộc Mẫu giảng đường) để nghỉ trưa.
Lúc bấy giờ, vua Pasenadi nước Kosala cưỡi trên con voi Ekapundarika và đi ra khỏi thành Savatthi trong buổi sáng sớm. Vua Pasenadi nước Kosala thấy Tôn giả Ananda từ xa đi đến, thấy vậy liền nói với vị đại thần Sirivaddha:
— Vị Tôn giả ấy, này Sirivaddha, có phải là Ananda không?
— Thưa phải, tâu Ðại vương, Tôn giả ấy là Ananda.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala nói với một người khác:
— Này Người kia, hãy đi đến Tôn giả Ananda, sau khi đến, nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ananda, rồi thưa như sau: “Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả Ananda không có công việc gì phải làm gấp, thưa Tôn giả, mong Tôn giả hãy vì lòng từ chờ đợi một lát”.
— Thưa vâng, tâu Ðại vương.
Người ấy vâng đáp vua Pasenadi xứ Kosala, đi đến Tôn giả Ananda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi đứng một bên. Ðứng một bên, người ấy thưa với Tôn giả Ananda:
— Thưa Tôn giả, vua Pasenadi nước Kosala cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ananda, và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả Ananda không có công việc gì phải làm gấp, thưa Tôn giả, mong Tôn giả hãy vì lòng từ chờ đợi một lát”.
Tôn giả Ananda im lặng nhận lời. Rồi Tôn giả Ananda đi đến bờ sông Aciravati, sau khi đến, liền ngồi xuống trên chỗ đã đoạn sẵn, dưới một gốc cây. Rồi vua Pasenadi nước Kosala, cưỡi voi cho đến chỗ nào có thể đi voi được, rồi xuống voi đi bộ đến chỗ Tôn giả Ananda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vua Pasenadi nước Kosala thưa với Tôn giả Ananda:
— Thưa Tôn giả, ở đây, mong Tôn giả Ananda ngồi trên thảm ngựa.
— Thôi vừa rồi, Ðại vương, Ðại vương hãy ngồi. Tôi đã ngồi trên chỗ ngồi của tôi.
Vua Pasenadi nước Kosala ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, vua Pasenadi nước Kosala thưa với Tôn giả Ananda:
— Thưa Tôn giả Ananda, có phải Thế Tôn không làm các thân hành mà các bậc Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách?
— Thưa Ðại vương, Thế Tôn không làm các thân hành mà các bậc Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.
— Thưa Tôn giả Ananda, có phải Thế Tôn không làm các khẩu hành… không làm các ý hành mà các bậc Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách?
— Thưa Ðại vương, Thế Tôn không làm các khẩu hành, ý hành mà các bậc Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.
— Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả! Thưa Tôn giả, điều mà tôi không thể nói lên một cách đầy đủ trong một câu hỏi, đã được Tôn giả Ananda nói lên một cách đầy đủ trong câu trả lời câu hỏi. Thưa Tôn giả, khi người ngu si, thiếu kinh nghiệm tán thán hay hủy báng những người khác, mà không chứng nghiệm và suy xét, thì chúng tôi không y cứ vào đấy và xem như là lõi cây. Nhưng thưa Tôn giả, khi người có trí, có kinh nghiệm tán thán hay hủy báng những người khác, có chứng nghiệm và suy xét, thì chúng tôi y cứ vào đấy và xem như là lõi cây.
Nhưng thưa Tôn giả Ananda, thế nào là thân hành mà các vị Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách?
— Thưa Ðại vương, bất cứ thân hành gì bất thiện.
— Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành bất thiện?
— Thưa Ðại vương, bất cứ thân hành gì có tội.
— Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành có tội?
— Thưa Ðại vương, bất cứ thân hành gì có hại.
— Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành có hại?
— Thưa Ðại vương, bất cứ thân hành nào có khổ báo.
— Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành có khổ báo?
— Thưa Ðại vương, phàm thân hành gì đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, từ nơi thân hành ấy, các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm. Thưa Ðại vương, thân hành như vậy bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.
— Thưa Tôn giả, thế nào là khẩu hành… thế nào là ý hành bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách?
— Thưa Ðại vương, bất cứ ý hành gì bất thiện.
— Thưa Tôn giả, thế nào là ý hành bất thiện?
— Thưa Ðại vương, phàm ý hành gì có tội.
— Thưa Tôn giả, thế nào là ý hành có tội?
— Thưa Ðại vương, phàm ý hành gì có hại.
— Thưa Tôn giả, thế nào là ý hành có hại?
— Thưa Ðại vương, phàm ý hành nào có khổ báo.
— Thưa Tôn giả, thế nào là ý hành có khổ báo?
— Thưa Ðại vương, phàm ý hành gì đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, từ nơi ý hành ấy các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm. Thưa Ðại vương, ý hành như vậy bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.
— Thưa Tôn giả Ananda, có phải Thế Tôn tán thán sự đoạn trừ tất cả bất thiện pháp?
— Thưa Ðại vương, Như Lai đã đoạn trừ tất cả bất thiện pháp và thành tựu các thiện pháp.
— Nhưng thưa Tôn giả Ananda, thế nào là thân hành không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách?
— Thưa Ðại vương, bất cứ thiện thân hành nào.
— Thưa Tôn giả, thế nào là thiện thân hành?
— Thưa Ðại vương, phàm thân hành nào không có tội.
— Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành không có tội?
— Thưa Ðại vương, phàm thân hành nào không có hại.
— Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành không có hại?
— Thưa Ðại vương, phàm thân hành nào có lạc báo.
— Thưa tôn giả, thế nào là thân hành có lạc báo?
— Thưa Ðại vương, phàm thân hành nào không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, từ nơi thân hành ấy, các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng. Thưa Ðại vương, thân hành như vậy không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.
— Thưa Tôn giả Ananda, thế nào là khẩu hành… thế nào là ý hành không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách?
— Thưa Ðại vương, bất cứ thiện ý hành nào.
— Thưa Tôn giả, thế nào là thiện ý hành?
— Thưa Ðại vương, phàm ý hành nào không có tội.
— Thưa Tôn giả, thế nào là ý hành không có tội?
— Thưa Ðại vương, phàm ý hành nào không có hại.
— Thưa Tôn giả, thế nào là ý hành không có hại?
— Thưa Ðại vương, phàm ý hành nào có lạc báo.
— Thưa Tôn giả, thế nào là ý hành có lạc báo?
— Thưa Ðại vương, phàm ý hành nào không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, từ nơi ý hành ấy, các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng. Thưa Ðại vương, ý hành như vậy không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.
— Thưa Tôn giả Ananda, có phải Thế Tôn tán thán sự thành tựu tất cả thiện pháp?
— Thưa Ðại vương, Như Lai đã đoạn trừ tất cả bất thiện pháp, và thành tựu các thiện pháp.
— Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả! Thật khéo nói thay việc này, thưa Tôn giả. Do Tôn giả Ananda mà chúng tôi, thưa Tôn giả, được hoan hỷ và thỏa mãn với những lời khéo nói của Tôn giả Ananda. Ðược hoan hỷ và thỏa mãn, thưa Tôn giả, với những lời khéo nói của Tôn giả Ananda, chúng tôi vui lòng tặng một con voi báu cho Tôn giả Ananda, nếu Tôn giả Ananda được phép nhận con voi báu. Chúng tôi vui lòng tặng con ngựa báu cho Tôn giả Ananda, nếu Tôn giả Ananda được phép nhận con ngựa báu. Chúng tôi vui lòng tặng một làng ân tứ cho Tôn giả Ananda, nếu Tôn giả Ananda được phép nhận một làng ân tứ. Nhưng thưa Tôn giả, chúng tôi được biết như sau: “Việc này Tôn giả Ananda không được phép”. Thưa Tôn giả, có cuộn vải ngoại hóa này, được gắn vào trong một cán dù, do vua Ajatasattu, con bà Videhi nước Magadha gởi cho tôi, dài mười sáu khuỷu tay, rộng tám khuỷu tay. Thưa Toân giả, mong Tôn giả Ananda vì lòng từ bi nạp thọ cho.
— Thôi vừa rồi, Ðại vương! Tôi đã đủ ba y.
— Thưa Tôn giả, sau cơn mưa lớn trên sườn núi, cả Tôn giả và tôi đã thấy lúc ấy sông Aciravati chảy mạnh, tràn qua hai bên bờ như thế nào. Cũng vậy, thưa Tôn giả, Tôn giả Ananda có thể làm cho mình ba y, từ nơi tấm vải ngoại hóa này. Còn ba y cũ, Tôn giả Ananda có thể đem phân phát cho các đồng Phạm hạnh. Như vậy sự bố thí này của chúng tôi được trôi chảy, như nước lan tràn qua bờ. Thưa Tôn giả, mong Tôn giả nhận cho tấm vải ngoại hóa này.
Rồi Tôn giả Ananda nhận lấy tấm vải ngoại hóa. Rồi vua Pasenadi nước Kosala thưa với Tôn giả Ananda:
— Thưa Tôn giả Ananda, nay chúng tôi phải đi. Chúng tôi có nhiều công vụ, có nhiều trách nhiệm phải làm.
— Thưa Ðại vương, nay Ðại vương hãy làm gì Ðại vương nghĩ là hợp thời.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Ananda dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, thân bên hữu hướng về ngài, rồi ra đi.
Tôn giả Ananda, sau khi vua Pasenadi nước Kosala ra đi không bao lâu, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda tường thuật lên Thế Tôn tất cả cuộc đàm thoại với vua Pasenadi nước Kosala rồi dâng tấm vải ngoại hóa lên Thế Tôn.
Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
— Thật hạnh phúc thay cho vua Pasenadi nước Kosala! Thật tốt đẹp thay cho vua Pasenadi nước Kosala! Vua đã được yết kiến Tôn giả Ananda và được cúng dường.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Bāhitika Sutta
Evaṁ me sutaṁ—ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Atha kho āyasmā ānando pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiyaṁ piṇḍāya pāvisi. Sāvatthiyaṁ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṁ piṇḍapātapaṭikkanto yena pubbārāmo migāramātupāsādo tenupasaṅkami divāvihārāya.
Tena kho pana samayena rājā pasenadi kosalo ekapuṇḍarīkaṁ nāgaṁ abhiruhitvā sāvatthiyā niyyāti divā divassa. Addasā kho rājā pasenadi kosalo āyasmantaṁ ānandaṁ dūratova āgacchantaṁ. Disvāna sirivaḍḍhaṁ mahāmattaṁ āmantesi: “āyasmā no eso, samma sirivaḍḍha, ānando”ti.
“Evaṁ, mahārāja, āyasmā eso ānando”ti.
Atha kho rājā pasenadi kosalo aññataraṁ purisaṁ āmantesi: “ehi tvaṁ, ambho purisa, yenāyasmā ānando tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā mama vacanena āyasmato ānandassa pāde sirasā vandāhi: ‘rājā, bhante, pasenadi kosalo āyasmato ānandassa pāde sirasā vandatī’ti; evañca vadehi: ‘sace kira, bhante, āyasmato ānandassa na kiñci accāyikaṁ karaṇīyaṁ, āgametu kira, bhante, āyasmā ānando muhuttaṁ anukampaṁ upādāyā’”ti.
“Evaṁ, devā”ti kho so puriso rañño pasenadissa kosalassa paṭissutvā yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṁ ānandaṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhito kho so puriso āyasmantaṁ ānandaṁ etadavoca: “rājā, bhante, pasenadi kosalo āyasmato ānandassa pāde sirasā vandati; evañca vadeti: ‘sace kira, bhante, āyasmato ānandassa na kiñci accāyikaṁ karaṇīyaṁ, āgametu kira, bhante, āyasmā ānando muhuttaṁ anukampaṁ upādāyā’”ti.
Adhivāsesi kho āyasmā ānando tuṇhībhāvena.
Atha kho rājā pasenadi kosalo yāvatikā nāgassa bhūmi nāgena gantvā nāgā paccorohitvā pattikova yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṁ ānandaṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhito kho rājā pasenadi kosalo āyasmantaṁ ānandaṁ etadavoca: “sace, bhante, āyasmato ānandassa na kiñci accāyikaṁ karaṇīyaṁ, sādhu, bhante, āyasmā ānando yena aciravatiyā nadiyā tīraṁ tenupasaṅkamatu anukampaṁ upādāyā”ti.
Adhivāsesi kho āyasmā ānando tuṇhībhāvena.
Atha kho āyasmā ānando yena aciravatiyā nadiyā tīraṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā aññatarasmiṁ rukkhamūle paññatte āsane nisīdi. Atha kho rājā pasenadi kosalo yāvatikā nāgassa bhūmi nāgena gantvā nāgā paccorohitvā pattikova yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṁ ānandaṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhito kho rājā pasenadi kosalo āyasmantaṁ ānandaṁ etadavoca: “idha, bhante, āyasmā ānando hatthatthare nisīdatū”ti.
“Alaṁ, mahārāja. Nisīda tvaṁ; nisinno ahaṁ sake āsane”ti.
Nisīdi kho rājā pasenadi kosalo paññatte āsane. Nisajja kho rājā pasenadi kosalo āyasmantaṁ ānandaṁ etadavoca: “kiṁ nu kho, bhante ānanda, so bhagavā tathārūpaṁ kāyasamācāraṁ samācareyya, yvāssa kāyasamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehī”ti? Variant: brāhmaṇehī”ti → brāhmaṇehi viññūhīti (si, sya-all, pts1ed)
“Na kho, mahārāja, so bhagavā tathārūpaṁ kāyasamācāraṁ samācareyya, yvāssa kāyasamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti. “Kiṁ pana, bhante ānanda, so bhagavā tathārūpaṁ vacīsamācāraṁ …pe… manosamācāraṁ samācareyya, yvāssa manosamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehī”ti? Variant: brāhmaṇehī”ti → brāhmaṇehi viññūhīti (si, sya-all, pts1ed) “Na kho, mahārāja, so bhagavā tathārūpaṁ manosamācāraṁ samācareyya, yvāssa manosamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti.
“Acchariyaṁ, bhante, abbhutaṁ, bhante. Yañhi mayaṁ, bhante, nāsakkhimhā pañhena paripūretuṁ taṁ, bhante, āyasmatā ānandena pañhassa veyyākaraṇena paripūritaṁ. Ye te, bhante, bālā abyattā ananuvicca apariyogāhetvā paresaṁ vaṇṇaṁ vā avaṇṇaṁ vā bhāsanti, na mayaṁ taṁ sārato paccāgacchāma; ye pana te, bhante, paṇḍitā viyattā medhāvino anuvicca pariyogāhetvā paresaṁ vaṇṇaṁ vā avaṇṇaṁ vā bhāsanti, mayaṁ taṁ sārato paccāgacchāma. Variant: viyattā → byattā (bj); byattā viyattā (sya-all); vyattā (pts1ed) | pana → ye ca kho (bj, sya-all, km, pts1ed)
Katamo pana, bhante ānanda, kāyasamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti?
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro akusalo”.
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro akusalo”?
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro sāvajjo”.
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro sāvajjo”?
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro sabyābajjho”. Variant: sabyābajjho → sabyāpajjho (bj, sya-all, km); savyāpajjho (pts1ed); sabyāpajjo (mr)
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro sabyābajjho”?
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro dukkhavipāko”.
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro dukkhavipāko”?
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro attabyābādhāyapi saṁvattati, parabyābādhāyapi saṁvattati, ubhayabyābādhāyapi saṁvattati. Tassa akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti; evarūpo kho, mahārāja, kāyasamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti.
“Katamo pana, bhante ānanda, vacīsamācāro …pe… manosamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti?
“Yo kho, mahārāja, manosamācāro akusalo”.
“Katamo pana, bhante, manosamācāro akusalo”? “Yo kho, mahārāja, manosamācāro sāvajjo”.
“Katamo pana, bhante, manosamācāro sāvajjo”? “Yo kho, mahārāja, manosamācāro sabyābajjho”.
“Katamo pana, bhante, manosamācāro sabyābajjho”? “Yo kho, mahārāja, manosamācāro dukkhavipāko”.
“Katamo pana, bhante, manosamācāro dukkhavipāko”?
“Yo kho, mahārāja, manosamācāro attabyābādhāyapi saṁvattati, parabyābādhāyapi saṁvattati, ubhayabyābādhāyapi saṁvattati. Tassa akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti; evarūpo kho, mahārāja, manosamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti.
“Kiṁ nu kho, bhante ānanda, so bhagavā sabbesaṁyeva akusalānaṁ dhammānaṁ pahānaṁ vaṇṇetī”ti?
“Sabbākusaladhammapahīno kho, mahārāja, tathāgato kusaladhammasamannāgato”ti.
“Katamo pana, bhante ānanda, kāyasamācāro anopārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti?
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro kusalo”.
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro kusalo”?
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro anavajjo”.
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro anavajjo”?
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro abyābajjho”.
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro abyābajjho”?
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro sukhavipāko”.
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro sukhavipāko”?
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro nevattabyābādhāyapi saṁvattati, na parabyābādhāyapi saṁvattati, na ubhayabyābādhāyapi saṁvattati. Tassa akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhanti. Evarūpo kho, mahārāja, kāyasamācāro anopārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti.
“Katamo pana, bhante ānanda, vacīsamācāro …pe… manosamācāro anopārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti?
“Yo kho, mahārāja, manosamācāro kusalo”.
“Katamo pana, bhante, manosamācāro kusalo”? “Yo kho, mahārāja, manosamācāro anavajjo”.
“Katamo pana, bhante, manosamācāro anavajjo”? “Yo kho, mahārāja, manosamācāro abyābajjho”.
“Katamo pana, bhante, manosamācāro abyābajjho”? “Yo kho, mahārāja, manosamācāro sukhavipāko”.
“Katamo pana, bhante, manosamācāro sukhavipāko”?
“Yo kho, mahārāja, manosamācāro nevattabyābādhāyapi saṁvattati, na parabyābādhāyapi saṁvattati, na ubhayabyābādhāyapi saṁvattati. Tassa akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhanti. Evarūpo kho, mahārāja, manosamācāro anopārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti.
“Kiṁ pana, bhante ānanda, so bhagavā sabbesaṁyeva kusalānaṁ dhammānaṁ upasampadaṁ vaṇṇetī”ti?
“Sabbākusaladhammapahīno kho, mahārāja, tathāgato kusaladhammasamannāgato”ti.
“Acchariyaṁ, bhante, abbhutaṁ, bhante. Yāva subhāsitañcidaṁ, bhante, āyasmatā ānandena. Iminā ca mayaṁ, bhante, āyasmato ānandassa subhāsitena attamanābhiraddhā. Evaṁ attamanābhiraddhā ca mayaṁ, bhante, āyasmato ānandassa subhāsitena. Sace, bhante, āyasmato ānandassa hatthiratanaṁ kappeyya, hatthiratanampi mayaṁ āyasmato ānandassa dadeyyāma. Sace, bhante, āyasmato ānandassa assaratanaṁ kappeyya, assaratanampi mayaṁ āyasmato ānandassa dadeyyāma. Sace, bhante, āyasmato ānandassa gāmavaraṁ kappeyya, gāmavarampi mayaṁ āyasmato ānandassa dadeyyāma. Api ca, bhante, mayampetaṁ jānāma: Variant: mayampetaṁ → mayampetaṁ taṁ (si); mayampanetaṁ (sya-all, km) ‘netaṁ āyasmato ānandassa kappatī’ti. Ayaṁ me, bhante, bāhitikā raññā māgadhena ajātasattunā vedehiputtena vatthanāḷiyā pakkhipitvā pahitā soḷasasamā āyāmena, aṭṭhasamā vitthārena. Variant: vatthanāḷiyā → chattanāḷiyā (sya-all, km, pts1ed) Taṁ, bhante, āyasmā ānando paṭiggaṇhātu anukampaṁ upādāyā”ti.
“Alaṁ, mahārāja, paripuṇṇaṁ me ticīvaran”ti.
“Ayaṁ, bhante, aciravatī nadī diṭṭhā āyasmatā ceva ānandena amhehi ca. Yadā uparipabbate mahāmegho abhippavuṭṭho hoti, athāyaṁ aciravatī nadī ubhato kūlāni saṁvissandantī gacchati; evameva kho, bhante, āyasmā ānando imāya bāhitikāya attano ticīvaraṁ karissati. Yaṁ panāyasmato ānandassa purāṇaṁ ticīvaraṁ taṁ sabrahmacārīhi saṁvibhajissati. Evāyaṁ amhākaṁ dakkhiṇā saṁvissandantī maññe gamissati. Paṭiggaṇhātu, bhante, āyasmā ānando bāhitikan”ti.
Paṭiggahesi kho āyasmā ānando bāhitikaṁ.
Atha kho rājā pasenadi kosalo āyasmantaṁ ānandaṁ etadavoca: “handa ca dāni mayaṁ, bhante ānanda, gacchāma; bahukiccā mayaṁ bahukaraṇīyā”ti.
“Yassadāni tvaṁ, mahārāja, kālaṁ maññasī”ti. Atha kho rājā pasenadi kosalo āyasmato ānandassa bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā āyasmantaṁ ānandaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā pakkāmi.
Atha kho āyasmā ānando acirapakkantassa rañño pasenadissa kosalassa yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho āyasmā ānando yāvatako ahosi raññā pasenadinā kosalena saddhiṁ kathāsallāpo taṁ sabbaṁ bhagavato ārocesi. Tañca bāhitikaṁ bhagavato pādāsi.
Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi:
“lābhā, bhikkhave, rañño pasenadissa kosalassa, suladdhalābhā, bhikkhave, rañño pasenadissa kosalassa; yaṁ rājā pasenadi kosalo labhati ānandaṁ dassanāya, labhati payirupāsanāyā”ti.
Idamavoca bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṁ abhinandunti.
Bāhitikasuttaṁ niṭṭhitaṁ aṭṭhamaṁ.
Bāhitika Sutta
Dịch giả